Bộ kinh Đại thừa bảo trang nghiêm này được lưu truyền của ở các quốc gia phần đông theo Phật giáo như Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam. Kinh này chủ yếu nói về hạnh nguyện của đức Quán Thế Âm Bồ tát và thần chú Lục Tự Đại Minh OM MANI PADME HUM không thể nghỉ bàn được.
(QUYỂN THỨ NHẤT)
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại nước Xá vệ, trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ kheo Tăng, một ngàn hai trăm năm mươi vị và chư Bồ Tát Ma – ha – tát. Tên các vị ấy là:
– Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma – ha – tát
– Trí Kiến Bồ Tát Ma – ha – tát
– Kim Cang Quân Bồ Tát Ma – ha – tát
– Bí Mật Tạng Bồ Tát Ma – ha – tát
– Hư Không Tạng Bồ Tát Ma – ha – tát
– Nhật Tạng Bồ Tát Ma – ha – tát
– Vô Động Bồ Tát Ma – ha – tát
– Bảo Thủ Bồ Tát Ma – ha – tát
– Phổ Hiền Bồ Tát Ma – ha – tát
– Chứng Chân Thường Bồ Tát Ma – ha – tát
– Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma – ha – tát
– Đại Cần Dũng Bồ Tát Ma – ha – tát
– Dược Vương Bồ Tát Ma – ha – tát
– Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát
– Chấp Kim Cang Bồ Tát Ma – ha – tát
– Hải Tuệ Bồ Tát Ma – ha – tát
– Trì Pháp Bồ Tát Ma – ha – tát
và các vị khác như thế; Tám mươi trăm ức Bồ Tát đều đến hội họp.
Khi ấy còn có các vị Thiên tử từ ba mươi hai cõi trời cũng đều đến hội họp. Đại Tự Tại Thiên và Na – la – diên Thiên làm bậc thượng thủ. Cùng với Đế Thích Thiên Vương, Thiên Chủ Đại Phạm Thiên Vương của Thế Giới Ta bà: Nhật thiên tử – Nguyệt thiên tử – Phong thiên tử – Thủy thiên tử, và các vị Thiên Chúng khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Long vương, tên các vị ấy là:
– A – bát – la – la Long vương
– Ê – la – bát – đát – rị Long vương
– Để – minh – nghi – lệ Long vương
– Chủ Địa Long vương
– Bách Đẩu Long vương
– Hổ – lỗ – tư – noa Long vương
– Đắc – xoa – kế Long vương
– Ngưu Đầu Long vương
– Lộc Đầu Long vương
– Nan – đà Long vương
– Bạt – nan – đà Long vương
– Ngư Tử Long vương
– Vô Nhiệt Não Long vương
– Sa – nghiệt – trị – noa Long vương
và các vị Long vương khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Càn – thát – bà vương, tên các vị ấy là:
– Cổ Âm Càn – thát – bà vương
– Diệu Thanh Càn – thát – bà vương
– Thiên Tý Càn – thát – bà vương
– Thiên Chủ Càn – thát – bà vương
– Thân Hoan Hỷ Càn – thát – bà vương
– Chủng Chủng Nhạc Âm Càn – thát – bà vương
– Trang Nghiêm Càn – thát – bà vương
– Hiện Đồng Tử Thân Càn – thát – bà vương
– Diệu Tý Càn – thát – bà vương
– Pháp Lạc Càn – thát – bà vương
và các vị Càn – thát – bà vương khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Khẩn – na – la vương, tên các vị ấy là:
– Diệu Khẩu Khẩn – na – la vương
– Bảo Quan Khẩn – na – la vương
– Hi Di Khẩn – na – la vương
– Hoan Hỷ Khẩn – na – la vương
– Luân Trang Nghiêm Khẩn – na – la vương
– Châu Bảo Khẩn – na – la vương
– Đại Phúc Khẩn – na – la vương
– Kiên Cố Tinh Tấn Khẩn – na – la vương
– Diệu Dũng Khẩn – na – la vương
– Bách Khẩu Khẩn – na – la vương
– Đại Thụ Khẩn – na – la vương
và các vị Khẩn – na – la vương khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Thiên nữ, tên các vị ấy là:
– Tối Thượng Thiên nữ
– Diệu Nghiêm Thiên nữ
– Kim Đoái Thiên nữ
– Trang Nghiêm Thiên nữ
– Văn Trì Thiên nữ
– Cam Lộ Nguyệt Thiên nữ
– Thanh Tịnh Thân Thiên nữ
– Bảo Quang Thiên nữ
– Hoa Thân Thiên nữ
– Thiên Diện Thiên nữ
– Khẩu Diễn – Ngũ nhạc âm Thiên nữ
– Khoái Lạc Thiên nữ
– Kim Man Thiên nữ
– Thanh Liên Hoa Thiên nữ
– Tuyên Pháp Âm Thiên nữ
– Diệu Lạc Thiên nữ
– Nhạo Sanh Thiên nữ
– Diệu Nghiêm Tướng Thiên nữ
– Nghiêm Trì Thiên nữ
– Bố Thí Thiên nữ
– Khiết Dĩ Thiên nữ
và các vị Thiên nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Long vương nữ, tên các vị ấy là:
– Diệu Nghiêm Trì Long nữ
– Mẫu tử – lân – na Long nữ
– Tam Kế Long nữ
– Hòa Dung Long nữ
– Thắng Cát Tường Long nữ
– Điện Nhãn Long nữ
– Điện Quang Long nữ
– Diệu Sơn Long nữ
– Bách Quyến Thuộc Long nữ
– Đại Dược Sư Long nữ
– Nguyệt Quang Long nữ
– Nhất Thủ Long nữ
– Bách Tính Long nữ
– Thọ Trì Long nữ
– Vô Phiền Não Long nữ
– Thiện Trang Nghiêm Long nữ
– Bạch Vân Long nữ
– Thừa Xa Long nữ
– Vị Lai Long nữ
– Đa Quyến Thuộc Long nữ
– Hải Phúc Long nữ
– Cái Diện Long nữ
– Pháp Tòa Long nữ
– Diệu Thủ Long nữ
– Hải Thâm Long nữ
– Diệu Cao Cát Tường Long nữ
và các vị Long nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Càn – thát – bà nữ, tên các vị ấy là:
– Ái Diện Càn – thát – bà nữ
– Ái Thí Càn – thát – bà nữ
– Vô Kiến Càn – thát – bà nữ
– Diệu Cát Tường Càn – thát – bà nữ
– Kim Cang Man Càn – thát – bà nữ
– Diệu Man Càn – thát – bà nữ
– Thụ Lâm Càn – thát – bà nữ
– Bách Hoa Càn – thát – bà nữ
– Hoa Phú Càn – thát – bà nữ
– Bảo Man Càn – thát – bà nữ
– Diệu Phúc Càn – thát – bà nữ
– Cát Tường Vương Càn – thát – bà nữ
– Cổ Ấn Càn – thát – bà nữ
– Diệu Trang Nghiêm Càn – thát – bà nữ
– Phong Lễ Càn – thát – bà nữ
– Pháp Ái Càn – thát – bà nữ
– Pháp Thí Càn – thát – bà nữ
– Thanh Liên Càn – thát – bà nữ
– Bách Thủ Càn – thát – bà nữ
– Liên Hoa Cát Tường Càn – thát – bà nữ
– Đại Liên Hoa Càn – thát – bà nữ
– Thể Thanh Tịnh Càn – thát – bà nữ
– Tự Tại Hành Càn – thát – bà nữ
– Thí Địa Càn – thát – bà nữ
– Thí Quả Càn – thát – bà nữ
– Sư Tử Bộ Càn – thát – bà nữ
– Bạch Thụy Liên Hoa Càn – thát – bà nữ
– Diệu Ý Càn – thát – bà nữ
– Huệ Trí Càn – thát – bà nữ
– Thiên Ngữ Ngôn Càn – thát – bà nữ
– Ái Nhẫn Nhục Càn – thát – bà nữ
– Nhạo Chân Tịch Càn – thát – bà nữ
– Bảo Nhân Càn – thát – bà nữ
– Đế thích Nhạo Càn – thát – bà nữ
– Thế Chủ Quyến Thuộc Càn – thát – bà nữ
– Lộc Vương Càn – thát – bà nữ
– Biến Hóa Cát Tường Càn – thát – bà nữ
– Diễm Phong Càn – thát – bà nữ
– Tham Giải Thoát Càn – thát – bà nữ
– Sân Giải Thoát Càn – thát – bà nữ
– Si Giải Thoát Càn – thát – bà nữ
– Thiện Tri Thức Quyến Thuộc Càn – thát – bà nữ
– Bảo Tòa Càn – thát – bà nữ
– Vãng Lai Càn – thát – bà nữ
– Hỏa Quang Càn – thát – bà nữ
– Nguyệt Quang Càn – thát – bà nữ
– Biến Chiếu Nhãn Càn – thát – bà nữ
– Kim Diệu Càn – thát – bà nữ
– Nhạo Thiện Tri Thức Càn – thát – bà nữ
và các vị Càn – thát – bà nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Khẩn – na – la nữ, tên các vị ấy là:
– Nhất Ý Khẩn – na – la nữ
– Thâm Ý Khẩn – na – la nữ
– Phong Hành Khẩn – na – la nữ
– Thủy Hành Khẩn – na – la nữ
– Thừa Không Khẩn – na – la nữ
– Tấn Thuật Khẩn – na – la nữ
– Tài Thí Khẩn – na – la nữ
– Diệu Nhân Khẩn – na – la nữ
– Vô Động Cát Tường Khẩn – na – la nữ
– Nghiêm Giới Khẩn – na – la nữ
– Sĩ Thịnh Quang Biến Khẩn – na – la nữ
– Diệu Cát Tường Khẩn – na – la nữ
– Bảo Kiếp Khẩn – na – la nữ
– Quang Tài Khẩn – na – la nữ
– Đoan Nghiêm Khẩn – na – la nữ
– Kim Cang Diện Khẩn – na – la nữ
– Kim Sắc Khẩn – na – la nữ
– Thù Diệu Trang Nghiêm Khẩn – na – la nữ
– Quảng Ngạch Khẩn – na – la nữ
– Vi Nhiễu Thiện Tri Thức Khẩn – na – la nữ
– Chủ Thế Khẩn – na – la nữ
– Hư Không Hộ Khẩn-na-la Nữ
– Trang Nghiêm Vương Khẩn – na – la nữ
– Châu Kế Khẩn – na – la nữ
– Tống Trì Châu Khẩn – na – la nữ
– Minh Nhân Vi Nhiễu Khẩn – na – la nữ
– Bách Danh Khẩn – na – la nữ
– Thí Thọ Khẩn – na – la nữ
– Hộ Trì Phật Khẩn – na – la nữ
– Pháp Giới Hộ Khẩn – na – la nữ
– Thượng Trang Nghiêm Khẩn – na – la nữ
– Sát na Thượng Khẩn – na – la nữ
– Cầu Pháp Thường Trì Khẩn – na – la nữ
– Thời Thường Kiến Khẩn – na – la nữ
– Vô Úy Khẩn – na – la nữ
– Thú Giải Thoát Khẩn – na – la nữ
– Thường Bí Mật Khẩn – na – la nữ
– Sử Tổng Trì Khẩn – na – la nữ
– Kiếm Quang Diễm Khẩn – na – la nữ
– Địa Hành Khẩn – na – la nữ
– Hộ Thiên Chú Khẩn – na – la nữ
– Diệu Thiên Chú Khẩn – na – la nữ
– Bảo Vương Khẩn – na – la nữ
– Nhẫn Nhục Bộ Khẩn – na – la nữ
– Hành Thí Khẩn – na – la nữ
– Đa Trú Xứ Khẩn – na – la nữ
– Trì Chú Khí Khẩn – na – la nữ
– Diệu Nghiêm Khẩn – na – la nữ
– Diệu Ý Khẩn – na – la nữ
và các vị Khẩn-na-la nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.
Lại có trăm ngàn Ưu – bà – tắc và Ưu – bà – di cũng đều đến hội họp.
Lại có vô số chúng tại gia cùng hàng xuất gia, trăm ngàn quái dị lõa thể ngoại đạo Ni – kiền – tử và các ngoại đạo khác cũng đều đến hội họp.
Lúc bấy giờ có luồng ánh sáng lớn từ Địa Ngục Đại Vô Gián tỏa ra rộng khắp. Ánh sáng đó biến chiếu Tịnh xá Kỳ Viên và khắp khu lâm viên đều trở nên trong suốt và thanh tịnh.
Trong vườn hiện ra những cột trụ Vi diệu viên mãn với Ma – Ni bảo châu cõi trời dùng làm trang nghiêm.
Lại hiện ra những lầu các lớn với châu báu dùng làm trang nghiêm.
Trong những lầu các đó lại hiện ra các khuê phòng:
– Hiện ra khuê phòng do hoàng kim tạo thành với nhiều bạc trắng làm cửa.
– Hiện ra khuê phòng do bạc trắng tạo thành với Hoàng kim làm cửa.
– Hiện ra khuê phòng do vàng bạc hỗn hợp tạo thành với vàng bạc hỗn hợp làm cửa.
– Hiện ra cung điện báu trang nghiêm do vàng bạc hỗn hợp tạo thành với vàng bạc hỗn hợp làm cột trụ cùng diệu bảo dùng để trang nghiêm.
– Hiện ra cung điện do hoàng kim tạo thành với vàng bạc làm cột trụ.
– Hiện ra cung điện do vàng bạc tạo thành với hoàng kim làm cột trụ.
– Hoặc hiện ra cung điện do vàng bạc tạo thành với các diệu bảo cõi trời dùng để trang nghiêm cột trụ.
Lại nữa, trên những cây cối tại vườn Kỳ – đà hiện ra đủ các loại châu báu Cõi trời dùng để trang nghiêm.
Lại hiện ra những cây kiếp-ba-la do Hoàng kim tạo thành với bạc trắng làm lá và trang nghiêm với đủ các loại châu bảo. Những cây đó có hàng trăm loại y phục thượng diệu như là Kiều – xa – da và các y phục như thế treo ở trên cây.
Lại có trăm ngàn màn lưới trân châu anh lạc, và vô vàn châu báu quấn trùm ở trên cây.
Lại có trăm ngàn mũ báu thượng diệu, bông tai, dây lụa đeo, và các tạp châu báu lung linh dùng để trang nghiêm.
Lại có những loại hoa thượng diệu khác nhau cùng giường nằm vi diệu thù thắng và những bảo hợp vi diệu dùng để trang trí. Có muôn loại cây Kiếp – ba – la được trang nghiêm như thế và số cây xuất hiện ở trong vườn có đến trăm ngàn.
Lại nữa, các khung cửa sổ và trên bậc thềm của những lầu các trong vườn Kỳ – đà được làm bằng kim cang diệu bảo. Trên những lầu các đó có vô số vải lụa thù thắng vi diệu và trân châu anh lạc như thế dùng để trang nghiêm.
Trong vườn lại có trăm ngàn ao báu thù thắng vi diệu với nước tám công đức tràn đầy trong ấy. Trong ao có những tạp hoa thù thắng, vi diệu, và viên mãn đầy khắp trong ao, như là: hoa Sen xanh, hoa Súng trắng, hoa Sen trắng, hoa Mạn – đà – la, hoa Ma – ha mạn – đà – la, hoa Ưu – đàm, và các thứ hoa khác như thế.
Lại có muôn loại cây hoa thù thắng vi diệu, như là: cây hoa Ngọc lan, cây hoa Ca – la – vĩ – la, cây hoa Ba – tra – la, cây hoa Diệu giải thoát, cây hoa Hương vũ, cây hoa Diệu ý, và có những cây hoa vui lòng đẹp ý như vậy.
Khi các tướng thanh tịnh hiếm có và vi diệu trang nghiêm như thế xuất hiện ở Kỳ Viên. Lúc ấy trong Pháp hội có một vị Bồ Tát Ma – ha – tát tên là Trừ Cái Chướng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, chắp tay cung kính cùng chiêm ngưỡng Tôn nhan và bạch Đức Phật rằng:
– Hy hữu thay, Đức Thế Tôn! Nay trong lòng con có điều nghi muốn hỏi Đức Như Lai. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn lắng nghe lời tác bạch của con: Thưa Đức Thế Tôn! Nay ở nơi đây có ánh sáng lớn, đó là do từ đâu chiếu đến? Vì nhân duyên gì mà hiện ra các tướng lạ thường như thế?
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Trừ Cái Chướng Bồ – Tát:
– Này Thiện nam tử! Các ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông phân biệt giảng giải. Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên đã vào trong Địa Ngục Đại Vô Gián. Sau khi cứu họ thoát khỏi khổ ách xong, Ngài lại vào đại thành để cứu độ tất cả Ngạ quỷ đang chịu khổ.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma – ha – tát lại bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Ngục thành của Địa Ngục Đại Vô Gián được bao bọc bằng sắt và nền của ngục cũng làm bằng sắt. Thành đó không có chỗ nào hở trống. Lửa dữ với khói luôn bốc cháy hừng hực. Trong Địa ngục của đường ác thú như thế có một cái chảo nước sôi rất lớn. Nước ấy sôi sùng sục và có trăm ngàn Ức na – do – tha hữu tình đều bị ném vào trong vạc nước sôi đó, ví như là đậu nấu trong nồi nước. Khi nước đang sôi lên, họ chìm nổi lên xuống không gián đoạn và bị nấu nát nhừ. Trong Địa Ngục A – tỳ này có chúng hữu tình thọ khổ như vậy. Thưa Đức Thế Tôn! Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát đã dùng phương tiện gì để vào trong đó?
Đức Thế Tôn lại bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma – ha – tát:
– Này Thiện nam tử! Đây ví như Chuyển Luân Thánh Vương bước vào khu vườn báu Ma – ni Cõi trời. Cũng như vậy, Thiện nam tử! Khi Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát vào Địa Ngục Đại A – tỳ thì không gì có thể chướng ngại thân thể của Bồ Tát. Lúc đó, tất cả khí cụ trừng phạt ở Địa Ngục A – tỳ đều chẳng thể nào bức hại thân của Bồ Tát. Ngọn lửa hẫy hừng của Đại địa ngục đó rồi sẽ bị diệt trừ và hóa thành ao nước mát mẻ. Khi ấy, các ngục tốt của Diêm Vương sanh lòng kinh ngạc về điều quái lạ chưa từng có này và nghĩ rằng:
– Tại sao trong này bỗng nhiên biến thành cảnh tượng phi thường như thế?
Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát vào trong ngục phá hủy đi vạc nước sôi và diệt trừ lửa dữ. Hầm lửa lớn đó hóa thành ao báu và trong ao có hoa sen to lớn như bánh xe.
Khi các ngục tốt của Diêm Vương đã thấy việc như vậy, họ cầm những khí cụ trừng phạt đi đến chỗ của Diêm – ma Thiên Tử, nào là cung, kiếm, chùy, gậy, cung tên, bánh xe sắt, cây chĩa ba, và những khí cụ khác như thế. Khi đến nơi, họ tâu rằng:
– Tâu Đại vương! Ngài chắc chắn biết được tại sao nơi nghiệp báo của chúng tôi bỗng nhiên đều diệt hết!
Khi ấy Diêm – ma Thiên Tử nói rằng:
– Nơi nghiệp báo của các người đều diệt hết như thế nào?
Lại thưa với Diêm – ma Thiên Tử rằng:
– Địa Ngục Đại A – tỳ kia bỗng nhiên trở nên mát mẻ. Giữa lúc việc ấy xảy ra, có một người với sắc tướng đoan nghiêm, trên búi tóc cài Châu bảo Cõi trời và có mũ báu dùng để trang nghiêm nơi thân. Người kia vào trong Địa ngục và phá hủy vạc nước sôi. Hầm lửa hóa thành ao và trong ao có hoa sen to lớn như bánh xe.
Lúc đó Diêm – ma Thiên Tử nhiếp tâm tư duy:
– Là vị Thiên nhân nào mà có oai lực như thế? Là Đại Tự Tại Thiên, Na – la – diên hay vị Trời nào khác đến Địa ngục kia và biến hiện ra việc không thể nghĩ bàn như thế? Có phải là do oai thần của Đại lực la – sát với mười đầu biến hóa ra chăng?
Lúc bấy giờ, Diêm – ma Thiên Tử dùng thiên nhãn thông để quán xem trên Cõi trời. Sau khi quán Chư thiên xong, ngài lại quán Địa Ngục A – tỳ và nhìn thấy Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát. Khi thấy như vậy, ngài liền vội đến chỗ của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát. Lúc đến nơi, đầu đảnh lễ dưới chân Bồ Tát và dùng bài kệ chí thành tán thán rằng:
Quy mạng Đại sĩ liên hoa vương
Đại Từ Đại Bi Quán Tự Tại
Bậc Đại tự tại diệu cát tường
Khéo ban hữu tình điều nguyện ước.
Sức đại oai thần viên mãn túc
Diệt bạo trừ ác khéo hàng phục
Làm ngọn đèn sáng nơi u tối
Ai trông thấy Ngài đều hết sợ.
Trăm ngàn cánh tay thị hiện ra
Hóa hiện số mắt cũng như vậy
Đầy đủ cụ túc mười một mặt
Trí tuệ ví như bốn biển lớn.
Yêu mến thiện tâm vi diệu Pháp
Là để cứu hộ chúng hữu tình
Cá rùa thủy tộc cùng mọi loài
Trí tuệ tối thượng như núi cao.
Ban thí châu báu cứu quần sanh
Là bậc tối thượng đại cát tường
Đầy đủ phước trí trang nghiêm thân
Vào trong Địa Ngục Đại A – tỳ
Sẽ liền biến thành nơi thanh lương.
Hết thảy Chư thiên đều cúng dường
Đảnh lễ bậc Thánh thí vô úy
Thường thuyết Lục Độ Ba – la – mật
Hằng giữ Pháp đăng luôn cháy sáng.
Pháp nhãn sáng hơn ánh thái dương
Sắc tướng vi diệu thật đoan nghiêm
Thân tướng sắc vàng như kim sơn
Lòng từ sâu thẳm như biển Pháp.
Tâm ý tương ứng đồng chân như
Trong miệng hiện ra diệu công đức
Tích tập chánh định Tam – ma – địa
Nhiều đến vô số trăm muôn ngàn
Lại có vô lượng sự an vui
Diện mạo đoan nghiêm tối thượng tiên.
Sợ hãi kinh hoàng nơi ác đạo
Gông cùm xiềng xích sẽ thoát ra
Khéo ban chúng sanh Pháp vô úy
Quyến thuộc đại chúng luôn vây quanh
Sở nguyện sở cầu đều toại ý
Như được châu báu ngọc Ma – ni.
Phá hủy diệt nát Ngạ quỷ thành
Khai mở con đường tịch tĩnh yên
Cứu độ thế gian trừ ách bệnh
Như cây tràng phan bao phủ che.
Long Vương Nan – đà, Bạt – nan – đà
Vua Rồng cuộn quanh ở hai ách
Trên tay Ngài cầm bất không sách
Hóa hiện vô số oai thần đức
Phá trừ Tam Giới đều hãi kinh.
Bàn tay kim cang hiển oai thần
Dạ- xoa, la – sát, quỷ bộ – đa
Loài quỷ Vĩ – đa – noa – chỉ – nễ
Cùng với loài quỷ Cưu – bàn – đồ
Loài quỷ A – bát – sa – mạ – la
Tất cả thảy đều bị khiếp sợ.
Như Hoa sen xanh mắt sáng trong
Bậc Thánh hay ban pháp vô úy
Diệt trừ hết thảy chứng phiền não
Tất cả mọi việc đều giải thoát.
Biến khắp thế giới vi trần số
Thâm nhập trăm ngàn Tam – ma – địa
Khai thị chúng mê các Cảnh giới
Tất cả chúng sanh trong ác đạo
Khiến họ thảy đều đắc giải thoát
Thành tựu viên mãn Đạo Bồ đề.
Khi đã dùng đủ mọi lời tán thán để cúng dường Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát xong, Diêm ma Thiên Tử nhiễu quanh ba vòng rồi trở về chốn cũ.
Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Lúc Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát đã cứu những chúng sanh thoát khổ ách xong, Ngài sẽ đến tham dự trong Pháp hội này không?
Đức Phật nói với Trừ Cái Chướng Bồ Tát:
– Này Thiện nam tử! Khi Quán Tự Tại Bồ Tát từ Địa Ngục Đại A – tỳ rời khỏi, Ngài lại vào đại thành của loài Ngạ quỷ. Trong thành đó có vô số trăm ngàn Ngạ quỷ, miệng phun ra đầy lửa, mặt mày cháy khét. Thân hình khô héo, đầu tóc rối ren, lông trên thân đều dựng đứng. Bụng của chúng lớn như núi, còn cổ thì nhỏ như cây kim.
Khi Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát đi đến đại thành của loài Ngạ quỷ, lửa nghiệp cháy phừng phừng của thành đó đều bị diệt mất và biến thành mát mẻ. Lúc ấy có một con quỷ gác cổng thành. Thân hình quỷ to lớn, diện mạo xấu xí, hai mắt đỏ lòm sắc lạnh, và nó phát khởi lòng từ như vầy:
– Bây giờ, ta không thể canh giữ chốn ác nghiệp như thế này nữa.
Khi đó, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát khởi tâm Đại bi, trong mười đầu ngón tay phun ra những dòng nước, lại trong mỗi ngón chân cũng tuôn trào ra những dòng nước lớn, và mỗi một lỗ chân lông nước chảy ra thành dòng Lúc ấy, các loài Ngạ quỷ này uống nước trong đó. Khi uống nước này xong, cổ họng mở lớn và thân tướng trở nên viên mãn. Chúng lại được nhiều loại ẩm thực ngon lạ và tất cả đều no đủ.
Khi những loài Ngạ quỷ này được sự an vui lợi ích như thế, trong lòng của mỗi Ngạ quỷ suy nghĩ tường tận như vầy:
– Tại sao người ở Nam Thiện Bộ Châu thường thọ hưởng những sự mát mẻ, yên ổn, và điều vui sướng?
Là vì nơi đó:
– Hoặc có người khéo thường cung kính và hiếu dưỡng cha mẹ
– Hoặc có người khéo có thể bố thí ân huệ và vâng lời dạy của bậc Thiện Tri Thức
– Hoặc có người thông minh tài trí và thường yêu thích Pháp Đại Thừa
– Hoặc có người khéo có thể thực hành Bát Thánh Đạo
– Hoặc có người khéo có thể đánh trống Pháp
– Hoặc có người khéo có thể tu bổ Tu viện bị hư hoại
– Hoặc có người khéo có thể tu bổ Chùa tháp Phật
– Hoặc có người khéo có thể tu bổ Tháp đền bị vỡ nát
– Hoặc có người khéo có thể cúng dường và tôn trọng Pháp sư
– Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Như Lai
– Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Bồ Tát
– Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Bích – Chi – Phật
– Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của A – La – Hán.
Khi chúng tư duy ở Nam Thiện Bộ Châu có những việc tu hành như vậy, lúc đó ở trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu. Khi các loài Ngạ quỷ này nghe được âm thanh đó, tuy sở chấp của chúng nơi thân kiến to lớn như núi cùng phiền não rối bời, nhưng tất thảy đều bị Chày Trí Tuệ Kim Cang diệt trừ đến tận gốc. Chúng liền đắc vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và đồng trở thành Bồ Tát với tên gọi là: Tùy Ý Khẩu.
Khi Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát đã cứu những chúng sanh thoát khổ đó xong, Đức Ngài lại đến các thế giới phương khác để cứu độ chúng hữu tình khác.
Lúc ấy, Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát có đến nơi này để cứu độ chúng hữu tình không?
Đức Phật nói:
– Này Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ Tát này đây thường luôn cứu độ vô số trăm ngàn Ức na – do – tha hữu tình mà chưa hề ngừng nghỉ. Ngài có đầy đủ sức đại oai thần và còn vượt hơn các Đức Như Lai.
Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát có sức oai thần to lớn như vậy?
Đức Phật nói:
– Này Thiện nam tử! Vào thuở quá khứ có Đức Phật xuất thế, hiệu là: Tỳ – bà – thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Trí, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vào thời ấy, Ta là con trai của một ông trưởng giả, tên Ta thuở đó là Diệu Hương Khẩu. Từ nơi của Đức Phật kia, Như Lai đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát, việc đó thế nào?
Đức Phật nói:
– Trong mắt của Quán Tự Tại Bồ Tát sanh ra mặt trời và mặt trăng
– Trên trán sanh ra vị Đại Tự Tại Thiên
– Bờ vai sanh ra Vị trời Phạm Vương
– Nơi trái tim sanh ra Vị trời Na – la – diên
– Ở răng sanh ra Vị trời Đại Biện Tài
– Trong miệng sanh ra Vị Phong Thiên
– Chỗ rốn sanh ra Vị Thiên Địa
– Nơi bụng sanh ra Vị Thủy Thiên
Khi Quán Tự Tại Bồ Tát đã sanh ra các Vị trời như thế xong, lúc đó Quán Tự Tại Bồ Tát bảo Đại Tự Tại Thiên rằng:
– Vào thời mạt Pháp trong các cõi giới của chúng hữu tình đời vị lai, sẽ có những chúng sanh chấp trước tà kiến. Họ đều bảo ông là vị Đại chủ tể từ vô thỉ đến nay và có năng lực sinh ra hết thảy mọi loài hữu tình. Những chúng sanh này vào thời kỳ đó đã đánh mất đi Đạo Bồ đề cùng ngu si mê muội
Và họ sẽ nói lời như thế này:
– Hư không này là thân thể rộng lớn của Ngài, địa cầu là tòa ngồi của Ngài. Các cõi giới cùng loài hữu tình đều sinh ra từ thân thể của Ngài.
Này Thiện nam tử! Ta đã nghe việc như thế từ nơi của Đức Tỳ – bà – thi Như Lai. Về sau lại có Đức Phật xuất thế, hiệu là: Thi – khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Này Trừ Cái Chướng! Vào thuở đó, Ta là Dũng Thí Bồ Tát Ma – ha – tát và cũng từ ở Đức Phật kia, Ta đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát.
Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai đã nghe về oai thần công đức của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát, việc đó thế nào?
Đức Phật nói:
– Lúc bấy giờ, tất cả Trời, Rồng, Dạ – xoa, A – tu – la, Ca – lâu – la, Ma – hầu – la – già, Người và Phi nhân trong Pháp hội của Đức Thi – khí Như Lai đã đến hội họp. Khi Đức Thế Tôn kia ở trong đại chúng sắp muốn thuyết Pháp, trong miệng của Ngài phóng ra muôn loại ánh sáng với nhiều màu sắc khác nhau. Như là:
– Màu xanh tỏa ánh sáng xanh
– Màu vàng tỏa ánh sáng vàng
– Màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ
– Màu trắng tỏa ánh sáng trắng
– Màu hồng tỏa ánh sáng hồng
– Màu pha lê tỏa ánh sáng pha lê
– Màu vàng kim tỏa ánh sáng vàng kim.
Những ánh sáng đó biến chiếu hết thảy Mười phương thế giới. Sau đó, những ánh sáng ấy trở về và nhiễu quanh Đức Phật kia ba vòng, rồi vào miệng của Ngài.
Khi ấy, trong Pháp hội kia có một vị Bồ Tát Ma -ha – tát tên là Bảo Thủ, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính và bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
– Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành này?
Đức Phật kia nói:
– Này Thiện nam tử! Ở Thế Giới Cực Lạc có một vị Bồ Tát Ma – ha – tát tên là Quán Tự Tại, Ngài vì muốn đến nơi này nên Như Lai mới hiện ra điềm lành ấy.
Khi Ngài Quán Tự Tại sắp đến, nơi đó xuất hiện vô số cây Kiếp – ba – la, cây Bông hoa, cây hoa Súng trắng, và cây hoa Ngọc lan. Lại hiện ra các loại hoa hỗn tạp, ao báu cùng cây cối. Trên trời mưa xuống muôn loại diệu hoa. Lại mưa xuống các Ma – ni báu, Trân châu, Lưu ly, Vỏ sò hình xoắn, Ngọc bích, San hô, và những Châu bảo khác. Lại có các y phục Cõi trời tựa như mây rơi xuống.
Vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc thuở đó xuất hiện ra thất bảo, gồm có:
– Kim luân báu
– Voi báu
– Ngựa báu
– Châu báu
– Ngọc nữ báu
– Chủ tàng báu
– Chủ binh báu
Khi bảy loại báu như thế xuất hiện, mặt đất đó thảy đều biến thành màu vàng kim.
Giữa lúc Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát đang rời khỏi Thế Giới Cực Lạc, đại địa chấn động sáu cách. Lúc bấy giờ, Bảo Thủ Bồ Tát Ma – ha – tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành này?
Đức Phật kia nói:
– Này Thiện nam tử! Đây là do Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát muốn đến nơi này nên Bồ Tát mới hiện ra điềm lành ấy.
Khi đó, trời mưa Diệu liên hoa và các loại hoa Vi diệu để làm vui lòng đẹp ý. Lúc ấy, trên tay của Quán Tự Tại Bồ Tát mang theo một đóa Hoa sen màu vàng kim sáng chói với một ngàn cánh đến chỗ của Đức Phật kia, đầu đảnh lễ dưới chân Phật, cầm đóa hoa sen đó và dâng lên Đức Thế Tôn kia rồi bạch rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Hoa này là do Đức Phật Vô Lượng Thọ sai con đem đến.
Đức Thế Tôn kia tiếp thọ hoa sen ấy và đặt ở bên trái của Ngài.
Đức Phật đó bảo Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát:
– Nay ông hiện sức oai thần công đức trang nghiêm này là do duyên cớ gì?
Quán Tự Tại Bồ Tát thưa:
– Con vì muốn cứu độ hết thảy chúng hữu tình ra khỏi chốn ác thú, bao gồm tất cả loài Ngạ quỷ, Địa ngục thọ khổ không gián đoạn, Địa ngục sợi dây đen, Địa ngục chết đi sống lại, Địa ngục thiêu đốt, Địa ngục quay nướng, Địa ngục vạc nước sôi, Địa ngục nước lạnh buốt. Trong các Địa ngục lớn có những chúng sanh thọ khổ như vậy, con đều cứu bạt, xa rời các nẻo ác và sẽ khiến họ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi Quán Tự Tại Bồ Tát nói lời ấy xong, Ngài đảnh lễ dưới chân Đức Phật. Lễ xong, Ngài thản nhiên vụt mất như ngọn lửa tan biến giữa hư không.
Lúc bấy giờ Bảo Thủ Bồ Tát thưa rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Con nay có điều nghi muốn xin thỉnh vấn Đức Như Lai, ngưỡng mong Đức Như Lai vì con Tuyên nói. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát có phước đức thế nào mà có thể hiện thần lực như vậy?
Đức Phật kia nói:
– Nếu có người dùng y phục Vi diệu Cõi trời cùng với áo Cà – sa, ẩm thực, thuốc thang, giường nằm, và các vật như thế, để cúng dường cho Hằng Hà Sa Chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thì phước đức có được chỉ bằng một phần trên đầu cọng lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, số lượng đó không hề sai khác.
Này Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, ở đó ngày đêm có mưa lớn liên tục trong suốt mỗi năm mười hai tháng, Ta có thể đếm từng giọt nước rơi nơi đó, nhưng Thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Lại ví như bốn biển lớn, độ sâu, rộng và dài là tám mươi tư ngàn do – tuần, Ta có thể đếm từng giọt nước của bốn biển lớn đó, nhưng Thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có các loài hữu tình bốn chân, như là: sư tử, voi, ngựa, cọp, chó sói, gấu, nai, bò, dê, và hết thảy các loài bốn chân như thế, Ta đều có thể tính đếm số lông trên thân của mỗi một con, nhưng Thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Lại ví như có người dùng vàng kim Cõi trời cùng châu báu để tạo lập hình tượng của các Đức Như Lai nhiều như số vi trần, khi xong, người đó làm đủ mọi sự cúng dường trong một ngày, Ta đều có thể biết được số lượng phước đức có được của người ấy, nhưng Thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Lại ví như cây cối trong tất cả các cánh rừng, Ta có thể tính đếm số lá của từng cây, nhưng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ Tát thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng.
Này Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ, và những người như thế, đều chứng quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A – la – hán, Duyên giác, hay quả Bồ đề, thì phước đức có được của họ chỉ bằng một phần trên đầu cọng lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, số lượng đó không hề sai khác.
Lúc bấy giờ, Bảo Thủ Bồ Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
– Con từ xưa đến nay, chưa từng bao giờ thấy và cũng chưa từng bao giờ nghe qua chư Phật Như Lai nào có phước đức như vậy. Thưa Đức Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại chỉ ở quả vị Bồ Tát mà sao có được phước đức dường ấy?
Đức Phật kia nói:
– Này Thiện nam tử! Chẳng riêng chỉ có Ta ở thế giới này mà thậm chí đến vô số chư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác ở phương khác, đều cùng hội họp một nơi thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Nếu có người ở thế giới này, như có thể nhớ niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát (tức là Quán Thế Âm Bồ Tát), thì người ấy sẽ xa hẳn sanh lão bệnh tử và nỗi thống khổ của luân hồi. Đây tựa như con ngỗng chúa bay thuận theo chiều gió. Người đó sẽ chóng đắc vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và diện kiến Đức Vô Lượng Thọ Như Lai (tức là Đức Phật A Di Đà) để nghe diệu Pháp. Người như vậy sẽ vĩnh viễn chẳng còn thọ khổ luân hồi. Họ không có tham sân si, không có sanh lão bệnh tử, và không có đói khát khốn khổ. Người đó chẳng còn phải chịu khổ do thọ sanh từ bào thai, họ chỉ nương Pháp lực oai thần mà liên hoa hóa sanh. Người ấy thường ở quốc độ kia để hầu cận Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát cùng cứu độ tất cả hữu tình, khiến thảy đều đắc giải thoát, và thệ nguyện kiên cố của họ cũng sẽ viên mãn.
Khi ấy, Bảo Thủ Bồ Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
– Khi nào thì Quán Tự Tại Bồ Tát sẽ cứu độ hết tất cả hữu tình, khiến thảy đều đắc giải thoát, và thệ nguyện kiên cố của Ngài sẽ viên mãn?
Đức Thế Tôn kia nói:
– Chúng hữu tình thì nhiều vô số. Họ thường phải chịu sanh tử luân hồi mà chưa hề ngừng nghỉ. Vì muốn cứu độ các chúng sanh như thế và khiến họ chứng Đạo Bồ đề, nên Quán Tự Tại này đây, tùy theo mỗi loài hữu tình mà hiện thân thuyết Pháp.
Cần dùng thân Phật để độ thoát, liền hiện thân Phật mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Bồ Tát để độ thoát, liền hiện thân Bồ Tát mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Duyên Giác để độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Thanh Văn để độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Đại Tự Tại Thiên để độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Na – la – diên để độ thoát, liền hiện thân Na – la – diên mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Phạm Vương để độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Đế – thích để độ thoát, liền hiện thân Đế – thích mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Nhật Thiên tử để độ thoát, liền hiện thân Nhật Thiên tử mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Nguyệt Thiên tử để độ thoát, liền hiện thân Nguyệt Thiên tử mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Hỏa thiên để độ thoát, liền hiện thân Hỏa thiên mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Thủy thiên để độ thoát, liền hiện thân Thủy thiên mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Phong thiên để độ thoát, liền hiện thân Phong thiên mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Rồng để độ thoát, liền hiện thân Rồng mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Chướng ngại thần để độ thoát, liền hiện thân Chướng ngại thần mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Dạ – xoa để độ thoát, liền hiện thân Dạ – xoa mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Đa Văn thiên vương để độ thoát, liền hiện thân Đa Văn thiên vương mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Vua để độ thoát, liền hiện thân Vua mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Tể quan để độ thoát, liền hiện thân Tể quan mà vì họ thuyết Pháp
Cần dùng thân Cha mẹ để độ thoát, liền hiện thân Cha mẹ mà vì họ thuyết Pháp
Này Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát tùy theo mỗi loài hữu tình mà ứng thân hóa độ. Hóa hiện thân hình như vậy để thuyết Pháp, cứu độ các chúng sanh, khiến đều sẽ chứng quả địa Niết bàn của Như Lai.
Lúc đó, Bảo Thủ Bồ Tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
– Con chưa từng bao giờ thấy hoặc nghe về những sự chẳng thể nghĩ bàn và hiếm có như vậy. Thưa Đức Thế Tôn! Quán Tự Tại Bồ Tát Ma-ha-tát có những việc bất khả tư nghì như thế, thật là vị tằng hữu.
Đức Phật kia nói:
– Này Thiện nam tử! Tại châu Nam Diêm – phù – đề này có một hang động bằng Kim cang, nơi ấy có vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha A – tu – la đang trú trong đó.
Này Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát đến nơi ấy, Ngài hiện thân A – tu – la và vì loài A – tu – la đó mà thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này. Khi chúng A – tu – la nghe được Kinh này, tất cả đều phát khởi lòng từ bi, rồi chúng dùng bàn tay nâng đôi chân của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát mà thành tâm nghe Chánh Pháp. Sau đó, hết thảy đều đắc an lạc.
Nếu ai nghe được Kinh Vương này cùng có thể đọc tụng, như người ấy có năm tội vô gián, thì hết thảy đều tiêu trừ. Khi gần mạng chung sẽ có mười hai Đức Như Lai đến tiếp dẫn và bảo người đó rằng:
– Này Thiện nam tử! Chớ nên sợ hãi, bởi vì Ông đã nghe được Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.
Sau đó, chư Như Lai kia hiển bày mọi Đạo lộ để vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc. Lúc ấy có những lọng che vi diệu, mũ trời, bông tai, và các y phục thượng diệu. Khi hiện ra các tướng như thế, người đó nhất định sẽ vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc.
– Này Bảo Thủ! Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát là bậc tối thắng, không một ai sánh bằng. Ngài hiện thân A – tu – la để khiến chúng A – tu – la đắc quả địa của Niết bàn.
Khi đó, Bảo Thủ Bồ Tát cúi đầu sát đất và đảnh lễ dưới chân của Đức Thế Tôn kia, lễ xong rồi cáo lui.
(Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương –Hết quyển thứ nhất)