Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Nay con phải làm thế nào mới đắc được Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này? Phàm ai đắc được thời sẽ tương ứng chẳng thể nghĩ bàn của vô lượng Thiền định và tức đồng như chứng A – nậu – đa – la Tam – muội, Tam – bồ – đề. Đà – la – ni này sẽ:
– Dẫn nhập vào môn giải thoát
– Hiển bày cảnh giới Niết – bàn
– Diệt trừ vĩnh viễn tham sân si
– Thành tựu Pháp tạng viên mãn
– Phá hủy năm nẻo luân hồi
– Thanh tịnh các địa ngục
– Đoạn trừ mọi phiền não
– Cứu độ chúng bàng sanh và
– Viên mãn Pháp vị
Nếu dùng Nhất Thiết Trí để diễn nói Đà – la – ni này thì cũng chẳng thể nói cùng tận.
Bạch Đức Thế Tôn! Con cần có Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này. Vì Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, con sẽ lấy thất bảo đầy khắp trong bốn châu lớn để bố thí và lấy giấy cùng biên chép.
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu vẫn không đủ mực, giấy, hoặc bút, con sẽ dùng thân thể của con để chích máu làm mực, lóc da làm giấy, và chẻ xương làm bút.
Thưa Đức Thế Tôn! Con sẽ không bao giờ hối tiếc và con tôn trọng Đà – la – ni này như cha mẹ của chính mình.
Lúc bấy giờ Đức Phật nói với Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng:
– Này Thiện nam tử! Nhớ lại vào thuở quá khứ, Ta vì Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này mà đã đi qua khắp các thế giới nhiều như số vi trần và cúng dường vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha Như Lai. Nhưng ở nơi của các Đức Như Lai kia, Ta vẫn chưa hề đắc được hay nghe tới. Lúc đó trong đời có Đức Phật tên là Bảo Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi ấy Ta ở trước Đức Phật kia mà rơi lệ than khóc. Lúc bấy giờ Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác kia bảo Ta rằng:
Thiện nam tử! Ông chớ than khóc nữa. Thiện nam tử! Ông hãy đi đến thế giới của Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Ở chỗ ấy, Đức Phật kia biết được Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này.
Này Thiện nam tử! Sau đó Ta từ biệt Bảo Thượng Như Lai và đi đến Phật độ của Liên Hoa Thượng Như Lai. Khi đến nơi, Ta đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ở trước Đức Phật kia và chắp tay bạch rằng:
– Duy nguyện Thế Tôn hãy truyền cho con Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni. Đà – la – ni kia là vua chân ngôn của tất cả bổn mẫu. Nếu nhớ niệm danh hiệu đó thời các tội cấu sẽ tiêu trừ và sớm chứng quả Bồ đề. Con bây giờ đã kiệt sức, bởi vì con đã đến vô số thế giới mà vẫn không thể chứng đắc. Tới bây giờ, con mới đến được nơi này.
Khi đó, Liên Hoa Thượng Như Lai liền nói công đức của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này:
– Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.
Thiện nam tử! Lại ví như biển lớn, Ta có thể đếm từng hạt cát trong đó, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.
Thiện nam tử! Lại ví như có vị thiên nhân tạo lập một kho chứa đồ với chiều dài một ngàn do – tuần, rộng một ngàn do – tuần, và cao một ngàn do – tuần, tích trữ đầy khắp trong đó toàn là hạt vừng đến một chỗ trống nhỏ như cây kim cũng chẳng có. Lại nữa, người canh giữ nơi đó không bị già và không bao giờ chết. Cứ mỗi một trăm kiếp, người ấy thảy một hạt vừng ra ngoài và cứ như thế cho đến khi người ấy thảy hết không còn một hạt nào. Ta có thể đếm số lượng đó, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.
Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, trong đó trồng đủ các loại lúa gạo cùng những cây quý khác. Vua Rồng làm mưa và lúc đến mùa thì các cây đó thảy chín đều. Khi đã thu hoạch xong tất cả, hãy lấy Nam Thiện Bộ Châu làm sân, rồi dùng xe cộ để vận chuyển hết về sân và tích tụ thành một đống lớn. Thiện nam tử, Ta có thế đếm từng hạt trong đó, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.
Thiện nam tử! Ở Nam Diêm – phù – đề có những con sông lớn chảy suốt ngày đêm, như là: sông Tỉ – đa, sông Cương – nga, sông Diễm – mẫu – na, sông Phạ – sô, sông Thiết – đa – rô – nại – la, sông Tán – nại – la – bà – nghiệt, sông Ái – la – phạ – để, sông Tô – ma – nga – đà, sông Hê – ma và sông Ca – la – thú – na – rị. Mỗi một con sông này có năm ngàn con sông nhỏ và chảy suốt ngày đêm vào biển lớn. Thiện nam tử, Ta có thể đếm từng giọt nước trong những con sông lớn kia, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của người đó.
Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có các loài hữu tình bốn chân, như là: sư tử, voi, ngựa, bò rừng, trâu nước, cọp, sói, khỉ, nai, dê, cừu, chó rừng, thỏ, và các loài bốn chân như thế. Ta có thể đếm từng cọng lông của chúng, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của người đó .
Thiện nam tử! Lại ví như Vua núi Kim cang hình móc câu, chiều cao chín mươi chín ngàn do – tuần, độ sâu tám mươi tư ngàn do – tuần, chiều dài tám mươi tư ngàn do – tuần, và chiều rộng là tám mươi tư ngàn do – tuần. Ở trên núi kia có một người không già, không chết, người ấy trải qua một kiếp mới đi hết một vòng của núi kia. Vua núi như thế, Ta có thể dùng áo Kiều – thi – ca để quét sạch đến không còn một chút gì, nhưng nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của người đó.
Thiện nam tử! Lại ví như Đại hải, độ sâu là tám mươi tư ngàn do – tuần, mặt biển trải rộng vô lượng. Ta có thể dùng trên đầu của một cọng lông để chấm vào biển nước, và chấm cho đến khi hết sạch, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của người đó .
Thiện nam tử! Lại ví như rừng cây lớn Thi – lợi – sa, Ta có thể đếm từng lá một, nhưng Thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của người đó.
Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có đầy khắp kẻ nam người nữ cùng trẻ con đang trú ở đó, giả như tất cả họ đều đắc quả vị Thất Địa Bồ Tát, thì công đức của chư Bồ Tát kia cùng công đức người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này bằng nhau không khác.
Thiện nam tử! Trừ những năm có mười hai tháng ra, hãy lấy những tháng dư của các năm có mười ba tháng mà cộng lại thành một năm và rồi thành trọn một kiếp trên Cõi trời. Giả sử như trời mưa ngày đêm suốt một kiếp đó, Thiện nam tử, Ta có thể đếm từng giọt nước mưa, nhưng nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì số lượng công đức của người đó còn nhiều hơn số kia. Ý ông nghĩ sao?
Thiện nam tử! Lại ví như có một ức các Đức Như Lai đồng ở tại một nơi và có người trải qua thời gian một kiếp trên Cõi trời, lấy y phục ẩm thực, giường nằm, tọa cụ cùng thuốc thang và đủ các vật thọ dụng để cúng dường chư Như Lai kia, tuy nhiên, công đức đó vẫn còn có thể biết được, nhưng công đức có được của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này thì cũng không thể nào biết tận số lượng. Chẳng phải chỉ có Ta nay ở tại thế giới này, mà dù cho Ta ở trong định thì công đức ấy cũng chẳng thể suy lường.
Thiện nam tử! Pháp này rất vi diệu, hết thảy đều tương ứng với Gia Hạnh Quán Trí. Vào đời vị lai, ông sẽ đắc tâm Pháp vi diệu này. Vị Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát kia khéo trụ nơi Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni như vậy đó.
Thiện nam tử! Thuở xưa, Ta dùng Gia Hạnh đi qua khắp vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha thế giới để đến chỗ của Đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Ta chắp tay ở trước Ngài và vì Pháp này Ta rơi lệ than khóc. Khi đó Đức Vô Lượng Thọ Như Lai thấy biết được nhân duyên của Ta ở hiện tại cùng vị lai mà bảo Ta rằng:
– Thiện nam tử! Ông cần Lục Tự Đại Minh Vương Quán Hạnh Du – già này phải không?
Ta liền thưa rằng:
– Thưa Đức Thế Tôn! Con cần Pháp này! Thưa Thiện Thệ! Con cần Pháp này! Con cần Pháp đó như người khát nước. Thưa Đức Thế Tôn! Con vì Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này mà đã du hành qua vô số thế giới để cúng dường cho vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha Như Lai, nhưng con vẫn chưa từng đắc được Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này. Duy nguyện Thế Tôn cứu giúp sự ngu độn của con, như người không cụ túc mà khiến được cụ túc, như người bị lạc đường mà chỉ dẫn đúng đường, như dưới ánh nắng chói chang mà trồng cây Sa – la ở ngã tư đường để làm tàng cây che mát. Tâm con rất khao khát Pháp này. Kính mong Đức Thế Tôn hãy khai thị chỉ bảo, khiến con khéo trụ nơi Đạo cứu cánh và mặc áo giáp Kim cang.
Lúc bấy giờ Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác dùng âm thanh Ca – lăng – tần – già mà bảo Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát rằng:
– Thiện nam tử! Ông thấy Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này mà đã đi qua khắp vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha thế giới. Thiện nam tử! Ông nên truyền Lục Tự Đại Minh, bởi Đức Như Lai kia vì Đà – la – ni đó mà đến nơi này.
Quán Tự Tại Bồ Tát thưa với Đức Thế Tôn kia rằng:
– Phàm ai không thấy Pháp tràng Mạn – đà – la thì chẳng thể đắc Pháp này. Huống nữa là làm sao biết được Liên Hoa Ấn? Làm sao biết được Trì Ma – ni Ấn? Làm sao biết được Nhất Thiết Vương Ấn? Và làm sao biết được Mạn – đà – la Thanh tịnh thể?
Tướng trạng của Mạn – đà – la này có chu vi hình vuông với chiều dài năm khuỷu tay. Ở chính giữa Mạn – đà – la an lập một hình tượng của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Rải xung quanh là các loại bột quý báu, gồm có: Nhân – nại – la – nể – la, Bát – nột – mạ – la – nga, Ma – la – yết – đa, Pha lê và Tô – phạ – la – noa – rô – bá.
Ở bên phải hình tượng của Đức Vô Lượng Thọ Như Lai an lập một hình tượng của Trì Đại Ma – ni Bảo Bồ Tát. Ở bên trái của Phật an lập một hình tượng của Lục Tự Đại Minh với bốn cánh tay, màu da trắng như nguyệt sắc, và có đủ mọi châu báu trang nghiêm nơi thân. Cánh tay trái ở trên cầm một Hoa sen và trên Hoa sen có một Ma – ni bảo châu, còn cánh tay phải ở trên cầm xâu chuỗi. Hai cánh tay ở dưới Kiết ấn Nhất Thiết Vương. Ở dưới chân của Lục Tự Đại Minh có Chư thiên với đủ mọi châu bảo dùng làm trang nghiêm. Bên tay phải của họ cầm một lư hương và lòng bàn tay bên trái giữ một bình bát với châu báu đầy khắp trong đó. Ở bốn phía góc của Mạn – đà – la an trí hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương và trong tay họ cầm đủ các loại binh khí cùng gậy. Ở bên ngoài bốn phía góc của Mạn – đà – la an bày bốn cái hiền bình và trong bình chứa đầy khắp muôn loại Ma – ni châu báu.
Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân nào muốn vào Mạn – đà – la này, thì quyến thuộc của họ không được cùng vào chung trong Mạn – đà – la. Nhưng trước khi họ vào, người ấy có thể ghi tên thân quyến của họ lên một tờ giấy, rồi liệng tờ giấy đó vào trong Mạn – đà – la, thời hàng quyến thuộc kia sẽ đều đắc quả vị Bồ Tát. Còn người vào trong đó sẽ xa rời mọi khổ não và mau chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị A – xà – lê không được vọng truyền Pháp này. Nếu có người khéo dùng thiện xảo phương tiện để chỉ bày cho người khác cùng thâm tín nơi Pháp Đại Thừa Gia Hạnh và chí tâm cầu giải thoát, thì vị A – xà – lê nên truyền Pháp này cho những người như thế mà chẳng nên truyền cho hàng ngoại đạo quái dị.
Lúc bấy giờ Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác bảo Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát rằng:
– Thiện nam tử! Nếu người Thiện nam, người Thiện nữ nào có năm loại bột quý báu như thế, thì có thể thiết lập Mạn – đà – la này. Nhưng nếu họ nghèo túng hoặc chẳng thể gom đủ các loại bột quý báu đó, thời phải làm sao?
Ngài Quán Tự Tại bạch rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Họ có thể dùng muôn loại phương tiện, bằng cách lấy các vật liệu với nhiều màu sắc, và dùng đủ mọi hương hoa để cúng dường. Nếu với phương thức đó mà Thiện nam tử, Thiện nữ nhân kia vẫn không làm được, hoặc vì họ đang ở trọ hay đang lữ hành, vị A – xà – lê có thể vận dụng ý lực để nghĩ tưởng và tạo thành Mạn – đà – la cùng kiết ấn A – xà – lê.
Lúc bấy giờ Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác nói với Quán Tự Tại Bồ Tát rằng:
– Thiện nam tử! Xin hãy nói cho Ta biết Lục Tự Đại Minh Vương Đà – la – ni này. Ta thỉnh cầu là vì muốn cho vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha hữu tình, khiến họ thoát ly khổ não của luân hồi và mau chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc đó Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát truyền Lục Tự Đại Minh này cho Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Đà – la – ni thuyết như vầy:
om mani padme hum (Tiếng Phạn)
(Phát Âm Theo Tiếng Việt: Ôm Ma Ni Pat Mê Hum)
Đương lúc tuyên thuyết Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì bốn châu lớn và cung điện của Chư thiên hết thảy đều chấn động như tàu lá chuối. Nước trong bốn biển lớn phun ra và nổi sóng cuồn cuộn. Hết thảy loài gieo rắc tai ương, như là Vĩ – na – dã – ca, Dạ – xoa, La – sát, Cưu – bàn – đồ, Ma – ha – ca – la, với những loài khác cùng quyến thuộc của chúng ma quỷ, tất thảy đều hốt hoảng giải tán và tháo chạy biệt tăm.
Lúc bấy giờ Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác duỗi cánh tay ra như cái vòi của con voi chúa và trao cho Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát xâu chuỗi anh lạc với trị giá trăm ngàn trân châu báu để cúng dường. Quán Tự Tại Bồ Tát thọ nhận, rồi ngài dâng lên cho Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phật kia nhận xong, rồi Ngài lại cầm trao cho Đức Liên Hoa Thượng Như Lai. Khi Đức Phật Liên Hoa Thượng đắc được Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này xong, Ngài trở về lại Thế Giới Liên Hoa Thượng.
Và như thế, Thiện nam tử! Ta vào thuở quá khứ đã nghe được Đà – la – ni này từ nơi của Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác kia.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Con phải làm thế nào mới đắc được Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này? Thưa Thế Tôn! Đà – la – ni này có đầy đủ Đức vị của cam lồ. Thưa Đức Thế Tôn! Nếu con nghe được Đà – la – ni này, con sẽ luôn nhớ niệm, tư duy cùng thọ trì mà không dám lãng quên. Con muốn làm cho chúng hữu tình nghe được Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, để họ có được đại công đức. Cúi mong Đức Thế Tôn hãy giảng nói.
Đức Phật giảng giải:
– Này Thiện nam tử! Nếu có người biên chép Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này thì tức bằng như biên chép tám mươi tư ngàn Pháp tạng mà không chút sai khác.
Nếu có người dùng vàng kim báu Cõi trời để tạo lập hình tượng của các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác nhiều như số vi trần, sau khi làm xong, họ tán thán và cúng dường trong một ngày, thì quả báo đạt được sẽ không bằng biên chép một chữ trong Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này. Quả báo công đức của Đà – la – ni này là chẳng thể nghĩ bàn và khéo dẫn đến bờ giải thoát.
Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân nào y Pháp tu hành và niệm Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, thì người đó sẽ đắc các Tam – muội như là:
– Trì Ma – ni Bảo Tam – muội
– Quảng Bác Tam – muội
– Thanh Tịnh Địa Ngục Bàng Sanh Tam – muội
– Kim Cang Giáp Trụ Tam – muội
– Diệu Túc Bình Mãn Tam – muội
– Nhập Chư Phương Tiện Tam – muội
– Nhập Chư Pháp Tam – muội
– Quán Trang Nghiêm Tam – muội
– Pháp Xa Thanh Tam – muội
– Viễn Ly Tham Sân Si Tam – muội
– Vô Biên Tế Tam – muội
– Lục Ba – la – mật Môn Tam – muội
– Trì Đại Diệu Cao Tam – muội
– Cứu Chư Bố Úy Tam – muội
– Hiện Chư Phật Sát Tam – muội
– Quán Sát Chư Phật Tam – muội.
và các Tam – muội như thế, sẽ đắc một trăm lẻ tám Tam – muội cả thảy.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Nay con phải đến nơi nào để con có thể đắc được Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này? Xin Đức Thế Tôn hãy khai thị.
Đức Phật nói:
– Này Thiện nam tử! Trong Đại thành Ba – la – nại có một vị Pháp sư thường tư duy, thọ trì cùng tụng niệm Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này.
Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bây giờ con muốn đến đại thành Ba – la – nại để diện kiến vị Pháp sư kia cùng lễ bái và cúng dường.
Đức Phật nói:
– Lành thay, lành thay, Thiện nam tử! Vị Pháp sư kia rất khó gặp. Bởi vì Ngài có thể thọ trì Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này, cho nên thấy được vị Pháp sư đó thời sẽ:
– Như thấy được Như Lai không khác.
– Như thấy được công đức Thánh địa
– Như thấy được nơi hội tụ của phước đức
– Như thấy được nơi tích trữ của trân bảo
– Như thấy được như ý Ma – ni bảo châu
– Như thấy được Pháp tạng
– Như thấy được bậc Thánh giả khéo cứu độ thế gian.
Này Thiện nam tử! Khi ông thấy vị Pháp sư kia thì không được sanh lòng khinh mạn hay hoài nghi.
Thiện nam tử, Ta e sợ ông sẽ thối thất quả vị Bồ Tát và sa đọa trầm luân, bởi vì giới hạnh của vị Pháp sư kia bị khiếm khuyết và sai phạm. Ngài có vợ, còn phân và nước tiểu dính áo cà sa, cùng chẳng có chút oai nghi.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Con xin vâng lời Đức Phật dạy.
Ngay sau đó, Trừ Cái Chướng Bồ Tát cùng vô số chư Bồ Tát, Hàng xuất gia, Trưởng giả, Đồng nam, và Đồng nữ, đều hân hoan muốn đến nơi đó để cúng dường. Họ cầm theo lọng che cõi trời cùng các vật cúng dường, như là: mũ báu, bông tai, anh lạc trang nghiêm, nhẫn đeo tay, vòng xuyến báu, áo Kiều – thi – ca, vải lụa sặc sỡ và giường nằm.
Lại có đủ các loại Hoa vi diệu, như là: hoa Sen xanh, hoa Súng trắng, Hha Sen trắng, hoa Mạn – đà – la, hoa Ma – ha mạn – đà – la, hoa mạn – thù – sa, hoa Ma – ha mạn – thù – sa, và hoa Ư – đàm.
Lại có đủ các loại cây hoa, như là: cây hoa Ngọc lan, cây hoa Ca – la – vĩ – la, cây hoa Ba – tra – la, cây hoa A – đề – mục – đa, cây hoa Phạ – lật – sử – ca – thiết, cây hoa Quân – đa, cây hoa Tu – mạn – na, và cây Hoa mạt – lợi.
Lại có chim Uyên ương, Bạch hạc, và Xá – lợi bay theo.
Lại có một trăm loại lá cây, như là: lá màu xanh, lá màu vàng, lá màu đỏ, lá màu trắng, lá màu hồng, màu pha lê, và những màu sắc khác.
Lại có muôn vàn loại trái cây quý hiếm.
Họ mang theo những vật cúng dường như thế, rồi hướng về Đại thành Ba – la – nại và đi đến chỗ của vị Pháp sư.
Khi đến nơi, đầu đảnh lễ dưới chân Ngài. Tuy họ thấy giới hạnh của vị Pháp sư kia bị khiếm khuyết, sai phạm và chẳng có chút oai nghi, nhưng họ vẫn vui mừng và cúng dường Ngài với lọng che, hương hoa, y phục, vật báu trang nghiêm cùng những phẩm vật khác đã mang theo. Khi xong, họ chắp tay và đứng ở phía trước của vị Pháp sư kia mà thưa rằng:
– Đại Pháp Tạng là tạng của vị Cam lồ, là biển Pháp thâm sâu, và rộng lớn như hư không. Tất cả hàng người đều nghe Ngài thuyết Pháp. Lúc Ngài thuyết Pháp thì hàng Trời, Rồng, Dạ – xoa, Càn – thát – bà, A – tu – la, Ca – lâu – la, Ma – hầu – la – già, Người và Phi nhân, hết thảy đều đến để nghe Ngài thuyết Pháp. Ngài như Đại Kim Cang, khiến cho chúng hữu tình giải thoát khỏi sự trói buộc cùng quả báo của luân hồi và làm cho họ có được phước đức. Vì dân chúng sống trong Đại thành Ba – la – nại này thường thấy được Ngài nên các tội thảy đều tiêu trừ, như lửa thiêu đốt rừng cây. Chỉ có các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác mới hiểu thấu Ngài.
Hôm nay có vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha chư Bồ Tát đều hân hoan đi đến chỗ của Ngài để cúng dường. Lại có Đại Phạm Thiên Vương, Na – la – diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Nhật thiên, Nguyệt thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa thiên, Diêm – ma Pháp Vương cùng Tứ Đại Thiên Vương cũng đều đến cúng dường.
Lúc bấy giờ vị Pháp sư nói rằng:
– Thiện nam tử! Ông đang nói đùa phải không?
Thánh giả! Ông có thật sự là vì thế gian mà cầu mong đoạn trừ phiền não của luân hồi không?
Thiện nam tử! Nếu có ai đắc được Lục Tự Đại Minh Vương Đà – la – ni này thì ba độc tham sân si chẳng thể làm xâm nhiễm người đó. Người ấy ví như châu báu màu vàng tím, trần cấu chẳng thể nào xâm nhiễm.
Thế nên, Thiện nam tử! Nếu có ai mang hoặc đeo Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni này trong mình, thì người đó cũng sẽ chẳng bị các thứ bệnh của tham sân si xâm nhiễm.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát cầm bàn chân của vị Pháp sư kia mà bạch rằng:
– Con vẫn chưa có đầy đủ con mắt sáng và niềm đam mê, nên con mất đi Đạo nhiệm mầu, ai sẽ làm người chỉ dẫn cho con? Nay con khát ngưỡng Pháp vị, xin Ngài hãy ban cho Pháp vị. Hiện tại con chưa chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xin hãy khiến chúng con khéo an trụ nơi hạt giống Pháp của Bồ đề, Chứng sắc thân thanh tịnh, cùng được Thiện căn bất hoại, và làm cho chúng hữu tình đều được Pháp này.
Khi đó, Đại chúng đồng thanh nói rằng:
– Xin chớ giữ cho riêng mình! Kính mong Pháp sư hãy truyền Pháp Lục Tự Đại Minh Vương và như thế sẽ khiến chúng con mau chứng đắc A – nậu – đa – la Tam – Muội, Tam – bồ – đề, khiến chúng con có thể chuyển mười hai Pháp luân để cứu độ tất cả hữu tình thoát khỏi sự khổ não của vòng luân hồi. Chúng con chưa từng bao giờ nghe được Pháp Đại Minh Vương này. Giờ đây kính mong Pháp sư hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương Đà – la – ni, để chúng con có thể làm nơi nương tựa cho những ai không người cứu hộ, mà làm ngọn đèn sáng trong đêm tối.
Lúc ấy, vị Pháp sư kia bảo rằng:
– Lục Tự Đại Minh Vương Đà – la – ni này rất khó gặp:
– Như kim cang không gì có thể phá hoại
– Như thấy được trí tuệ vô thượng
– Như thấy được trí tuệ vô tận
– Như thấy được trí tuệ thanh tịnh của Như Lai
– Như nhập vào vô thượng giải thoát, xa hẳn tham sân si cùng khổ não của luân hồi
– Như nhập vào thiền định, giải thoát, Tam – ma – địa, và Tam – ma – bát – đế
– Như nhập vào tất cả pháp mà chư Thánh thường yêu mến.
Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân nào vì cầu giải thoát mà tuân theo đủ mọi pháp của ngoại đạo ở khắp nơi, như là: thờ kính Đế – thích, hoặc thờ kính Hàng cư sĩ bạch y, hoặc thờ kính Hàng thanh y, hoặc thờ kính Nhật thiên, hoặc thờ kính Đại Tự Tại Thiên, hoặc thờ kính Na – la – diên Thiên, hoặc họ ở trong chúng Ca – lâu – la hay trong hàng ngoại đạo lõa thể. Tuy họ yêu mến các nơi như vậy, nhưng chẳng thể nào giải thoát ra khỏi vô minh. Sự tu hành của họ chỉ có danh nghĩa, hư vọng như hư không, và chỉ tự mình làm khổ mệt chính mình.
Hết thảy Thiên Chúng, Đại Phạm Thiên Vương, Đế – thích, Thiên Chủ, Na – la – diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Nhật thiên, Nguyệt thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa thiên, Diêm – ma Pháp Vương, và Tứ Đại Thiên Vương, tất cả họ luôn mong được Lục Tự Đại Minh Vương của Ta, bởi vì nếu họ đắc được Lục Tự Đại Minh Vương của Ta thời sẽ đều đắc giải thoát.
Thiện nam tử! Đà – la – ni này diệt trừ tất cả chướng nạn, là Mẹ của hết thảy chư Như Lai Bát – nhã Ba – la – mật. Khi tuyên thuyết Lục Tự Đại Minh Vương này thì tất cả các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác cùng chư Bồ Tát thảy đều cung kính chắp tay và đảnh lễ.
Thiện nam tử! Trong Đại Thừa, Pháp này là tối thượng, tinh thuần, và vi diệu. Vì sao thế? Đó là vì Pháp này bao gồm hết thảy Khế Kinh Đại Thừa, như là: Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi, Tỷ Dụ, Nhân Duyên, Tự Thuyết, Bổn Sanh, Bổn Sự, Vị Tằng Hữu, Phương Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký.
Thiện nam tử! Nếu đắc được bổn mẫu của Đà – la – ni này thì có cần thiết tu tập các môn tịch tĩnh giải thoát khác nữa không? Ví dụ như có người đến mùa thu hoạch lúa, họ bỏ thóc vào bao và mang về nhà. Sau đó, họ lấy thóc đi phơi khô, rồi đập, giã, và quạt để lấy vỏ trấu ra. Cuối cùng họ có được những hạt gạo tinh sạch. Cũng như vậy, trong tất cả các môn Du – già, các môn Du – già khác ví như vỏ trấu, còn Lục Tự Đại Minh Vương này thì ví như gạo trắng.
Thiện nam tử! Chư Bồ Tát vì Pháp này mà tu hành Bố Thí Ba – la – mật, Trì Giới Ba – la – mật, Nhẫn Nhục Ba – la – mật, Tinh Tấn Ba – la – mật, Thiền Định Ba – la – mật, và Bát nhã Ba – la – mật.
Thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Vương này rất khó gặp. Như chỉ niệm một biến thì người này sẽ được tất cả các Đức Như Lai lấy y phục, ẩm thực, thuốc thang, tọa cụ, giường nằm và những vật khác để cúng dường.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát thưa với Pháp sư rằng:
– Xin hãy truyền cho con Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni.
Vị Pháp sư kia liền chánh niệm tư duy và bỗng nhiên trong hư không có tiếng rằng:
– Thánh giả! Hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương này cho ông ta.
Vị Pháp sư kia liền tư duy:
– Tiếng này là từ đâu phát ra?
Trong hư không lại có tiếng vọng ra rằng:
– Thánh giả! Nay vị Bồ Tát đó tu hành Pháp Gia Hạnh và Chí tâm khẩn cầu, Thánh giả hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương này cho ông ta.
Vị Pháp sư kia liền quan sát trong hư không thì thấy Liên Hoa Thủ Bồ Tát và Liên Hoa Cát Tường Bồ Tát. Thân tướng của các Ngài như sắc màu ánh trăng mùa thu. Trên đỉnh đầu đội mũ báu Nhất Thiết Trí, thù diệu trang nghiêm.
Khi kiến thấy thân tướng như thế, vị Pháp sư bảo Ngài Trừ Cái Chướng rằng:
– Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát bảo Ta truyền cho ông Lục Tự Đại Minh Vương Đà – la – ni. Ông hãy lắng nghe!
Ngài Trừ Cái Chướng liền chắp tay cung kính để nghe Lục Tự Đại Minh Vương này. Đà – la – ni thuyết như vầy:
om mani padme hum (Tiếng Phạn)
(Phát Âm Theo Tiếng Việt: Ôm Ma Ni Pat Mê Hum)
Đương lúc tuyên thuyết Đà – la – ni này thì Đại địa đều chấn động sáu cách. Trừ Cái Chướng Bồ Tát liền đắc Tam – muội đó và còn đắc thêm Vi Diệu Tuệ Tam – muội, Phát Khởi Từ Bi Tam – muội, và Tương Ứng Hành Tam – muội. Khi đã đắc các Tam – muội này, Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma – ha – tát liền dùng đồ bảy báu tràn khắp trong bốn châu lớn mà phụng hiến cúng dường cho vị Pháp sư. Lúc đó, vị Pháp sư bảo rằng:
– Sự cúng dường của ông bây giờ còn chưa đáng bằng một chữ của Lục Tự Đại Minh Đà – la – ni. Thế thì làm sao cúng dường trọn cả sáu chữ? Thiện nam tử! Ông là một vị Bồ Tát, là một bậc Thánh giả, chứ không phải là phàm phu.
Khi ấy, Ngài Trừ Cái Chướng lại dùng xâu chuỗi anh lạc với trị giá trăm ngàn trân châu báu để cúng dường vị Pháp sư.
Lúc đó vị Pháp sư kia nói rằng:
– Thiện nam tử! Hãy nghe tôi nói, ông nên cầm những châu báu này mà cúng dường cho Đức Thích – ca – mâu – ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ Tát cúi đầu đảnh lễ dưới chân của vị Pháp sư. Lễ xong, trong lòng được mãn nguyện toại ý, rồi từ biệt cáo lui và trở về vườn Kỳ – đà. Khi đã về đến nơi, Ngài đảnh lễ dưới chân Phật.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích – Ca – Mâu – Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác bảo rằng:
– Này Thiện nam tử! Ta biết ông đã chứng đắc.
– Dạ vâng, thưa Thế Tôn!
Ngay lúc ấy có bảy mươi bảy ức (bảy mươi bảy lần mười triệu) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác đều đến hội họp và chư Như Lai kia đồng tuyên thuyết Đà – la – ni như vầy:
– Nam – mô tát – đa – nẩm, Tam – muội, Tam – bồ – đề, cu – chi – nẩm, đát – điệt – tha, án chiết – lệ chủ – lệ chuẩn – đề ta – bà – ha
Khi đó, Đức Phật nói:
– Đang trong lúc bảy mươi bảy ức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác tuyên thuyết Đà-la – ni này, thì trên thân của Quán Tự Tại Bồ Tát có một lỗ chân lông, tên là: Nhật Quang Minh. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha Bồ Tát. Ở trong lỗ chân lông Nhật Quang Minh kia lại có mười hai ngàn dãy núi vàng. Mỗi một dãy núi có một ngàn hai trăm chóp núi. Giáp vòng trên núi có hoa sen báu rực rỡ trang nghiêm. Xung quanh các núi kia có Ma – ni báu Cõi trời và khu viên lâm thích ý. Trong lỗ chân lông kia còn có đủ mọi ao hồ Cõi trời. Lại có vô số trăm ngàn vạn lầu các được trang nghiêm bằng vàng báu. Treo trên đó có trăm ngàn y phục và trân châu anh lạc. Trong những lầu các kia có như ý bảo châu vi diệu. Bảo châu này cung cấp cho chư đại Bồ Tát kia tất cả những vật dụng theo ý muốn.
Khi đó chư Bồ Tát vào trong những lầu các, rồi họ niệm Lục Tự Đại Minh và liền thấy quả địa của Niết bàn. Khi đã đến quả địa của Niết bàn, các Ngài thấy Như Lai cùng quán thấy Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – ha – tát, tâm liền sanh hoan hỷ. Tiếp đó, chư Bồ Tát này rời khỏi những lầu các kia và đến nơi kinh hành. Ở nơi kinh hành ấy có các khu vườn báu, các Ngài đi đến đó và rồi lại đi đến ao tắm. Sau đó, họ đi lên núi báu có hoa sen rực rỡ, rồi đồng xoay mặt về một hướng, ngồi kiết già và nhập Tam – muội. Và như thế, Thiện nam tử! Chư Bồ Tát đó đang trú ở trong lỗ chân lông kia.
Này Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Đế Thích Vương. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha chư Bồ Tát trụ ở quả vị bất thối chuyển. Ở trong lỗ chân lông Đế Thích Vương này lại có tám mươi ngàn ngọn núi vàng báu cõi trời. Trong các ngọn núi này có như ý Ma – ni bảo, tên là: Liên Hoa Quang. Chúng tùy theo tâm tư duy của chư Bồ Tát kia mà đều hiện ra như ý. Ở trong những ngọn núi đó, chư Bồ Tát kia như muốn ẩm thực, thời sẽ được đầy đủ. Các Ngài chẳng có sự khổ não của luân hồi, luôn tư duy về thân họ và không suy nghĩ điều gì khác.
Này Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Đại Dược. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha sơ phát tâm chư Bồ Tát. Thiện nam tử! Ở trong lỗ chân lông kia có chín mươi chín ngàn dãy núi. Ở trong những dãy núi này có hang Kim cang báu, hang Vàng báu, hang Bạc báu, hang Đế – thích xanh báu, hang màu hoa Sen báu, hang màu Xanh biếc báu, và hang màu Pha lê báu. Mỗi một Vua núi này có tám mươi ngàn chóp núi. Trên đó được trang nghiêm với đủ mọi thích ý Ma – ni cùng các Bảo châu vi diệu.
Trong những chóp núi kia có chúng Càn – thát – bà thường tấu âm nhạc. Các vị sơ phát tâm Bồ Tát kia tư duy về không, vô tướng, vô ngã, sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, nỗi khổ của chúng hữu tình bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián và Địa ngục sợi dây đen, nỗi khổ của chúng hữu tình bị sa vào loài Ngạ quỷ. Khi tư duy như thế, họ ngồi kiết già và nhập Tam – muội ở trong những ngọn núi kia.
Này Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Hội Họa Vương. Trong ấy có vô số trăm ngàn vạn Ức na – do – tha bậc Duyên Giác đang phóng ra ánh sáng cháy rực. Ở trong lỗ chân lông kia có trăm ngàn vạn ngọn núi. Những Vua núi này được trang nghiêm bằng đồ bảy báu và có muôn loại cây Kiếp – ba – la với bạc trắng làm lá cùng vô số trăm loại châu báu dùng để trang nghiêm. Trên cây treo những mũ báu, bông tai, y phục, xâu chuỗi anh lạc, chuông báu, và áo Kiều – thi – ca. Lại có chuông báu làm bằng bạc trắng và chúng phát ra tiếng leng keng. Những cây Kiếp – ba – la như thế có đầy khắp trong núi. Có vô số bậc Duyên Giác đang trú ở nơi kia. Họ luôn thuyết giảng Kinh Pháp như là: Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi, Tỷ Dụ, Nhân Duyên, Tự Thuyết, Bổn Sanh, Bổn Sự, Vị Tằng Hữu, Phương Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký.
Này Trừ Cái Chướng! Khi đó các bậc Duyên Giác kia đi ra khỏi lỗ chân lông đó.
Lại có một lỗ chân lông sau cùng tên là Phan Vương, rộng tám mươi ngàn do – tuần. Ở trong ấy có tám mươi ngàn ngọn núi được trang nghiêm bằng muôn loại diệu bảo cùng thích ý Ma – ni. Trong Vua núi kia có vô số cây Kiếp – ba – la, vô số trăm ngàn vạn cây hương chiên đàn, và vô số trăm ngàn vạn cây cổ thụ. Lại có đất kim cang báu. Lại có hàng trăm ngàn tòa chín mươi chín lầu làm bằng châu báu, vàng kim, trân châu, anh lạc, và y phục được treo trên đó.
Trong các cung điện nhiều tầng đó, có nhiều bậc thang vàng được trang trí với châu báu lấp lánh đủ loại.
Trong các cung điện nhiều tầng đó, chư Phật đang ngồi giảng Phật Pháp cho loài người tại Nam Thiện Bộ Châu.
Các Ngài đang giảng về sáu Ba – la – mật:
– Bố Thí Ba – la – mật
– Trì Giới Ba – la – mật
– Nhẫn Nhục Ba – la – mật
– Tinh Tấn Ba – la – mật
– Thiền Định Ba – la – mật
– Trí Huệ Ba – la – mật.
Chư Phật liên tục giảng nhiều pháp môn tu tập khác nhau cho loài người ở Nam Thiện Bộ Châu.
Này Thiện nam tử! Do đó họ thấy được những lỗ chân lông của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Họ cũng thấy được các Thiên chúng như Trời, Rồng, Dạ – xoa, A – tu – la, Ca – lâu – la, Khẩn – na – la, Ma – hầu – la – già, Người, Phi nhân, Đại Tự Tại Thiên, và Na – la – diên Thiên đang tụ họp tại Tịnh Xá Kỳ Viên, và vô lượng vô biên Bồ tát như thế cũng đều đến hội họp.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn, vậy không còn có bất kỳ lỗ chân lông nào khác sao?
Đức Thế Tôn nói:
– Thiện nam tử! Ở phía bên kia của lỗ chân lông đó là Bốn Đại Dương lớn, khởi sinh từ ngón chân cái thuộc bàn chân bên phải của Quán Tự Tại Bồ Tát, có độ sâu vô lượng. Khi nước tuôn ra từ ngón chân cái bên phải, nó đổ vào Vadavamukha – ngọn lửa hủy diệt cả thế giới dưới đáy biển đông nam, rồi biến nó thành một đống tro. Thiện nam tử, đó chính là thần lực mà Quán Tự Tại Bồ Tát có được.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn, vậy còn lỗ chân lông nào khác hay không?
Đức Thế Tôn đáp:
– Này Thiện nam tử, không còn lỗ chân lông nào nữa.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn, Quán Tự Tại Bồ Tát có quang lâm hay không?
Đức Thế Tôn đáp:
– Quán Tự Tại Bồ Tát sẽ đến thị hiện ở đây, để diện kiến, đảnh lễ và tán thán Như Lai, và tiên tri về Đại Tự Tại Thiên Vương (thần Siva) trong một cõi ở vũ trụ này.
Quán Tự Tại Bồ Tát phóng ra muôn quang linh đa sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê và bạc, rồi tỏa đến Tịnh Xá Kỳ Viên. Sau khi vòng quanh Đức Thế Tôn ba lần, muôn quang linh đó rời khỏi Tịnh Xá Kỳ Viên và đến Địa ngục Vô gián làm địa ngục này trở nên mát mẻ.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Những Quang linh đó đến từ đâu và chúng đã đi đâu?
Đức Thế Tôn đáp:
– Thiện nam tử, chính Quán Tự Tại Bồ Tát đã tỏa ra Quang linh muôn sắc đó, phóng đến Tịnh xá Kỳ Viên này, rồi vòng quanh Ta ba lần và sau đó đã đi đến Địa ngục Vô gián.
Ngay lúc đó, các điềm báo tốt lành đã được hiển lộ tại Tịnh Xá Kỳ Viên. Những cây
hoa Mộc lan thiêng và những Ao sen thiêng bỗng nhiên xuất hiện.
Ngay lúc đó, Tịnh Xá Kỳ Viên bỗng tỏa ra Quang linh sắc vàng.
Sau đó Quán Tự Tại Bồ Tát đã rời cõi Cực lạc và đi đến Tịnh Xá Kỳ Viên, và cuối cùng đã đến đó. Ngài đến Tịnh Xá Kỳ Viên, đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và nhẹ nhàng ngồi xuống một bên.
Khi đó, Đức Thế Tôn cất tiếng hỏi rằng:
– Này Thiện nam tử, con có mệt không? Con có thấy sức cùng lực kiệt không? Con đã hoàn toàn làm cho chúng sinh trở nên thuần lành chưa?
Quán Tự Tại Bồ Tát bạch Đức Thế Tôn:
– Con đã thực hiện như Đức Thế Tôn dạy. Con đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Thế Tôn phó chúc.
Đức Thế Tôn gật đầu nói rằng:
– Lành thay, lành thay, Thiện nam tử! Con đã khéo hoàn thành nhiệm vụ như vậy!
Khi đó Quán Tự Tại Bồ Tát dâng những bông Hoa sen lên Đức Thế Tôn và bạch rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật A Di Đà cúng dường Thế Tôn những bông Hoa sen này và cầu chúc Đức Thế Tôn: Thân tâm nhu nhuyến, Tứ đại điều hòa và Thong dong tự tại.
Đức Thế Tôn nhận những bông hoa sen và đặt chúng sang bên trái của Ngài.
Khi đó Đại Tự Tại Thiên Vương (thần Siva) đến trước Đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Ngài, và bạch rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn ban cho con một lời tiên tri.
Đức Thế Tôn bèn nói:
– Này Thiện nam tử, ông hãy đến gặp Quán Tự Tại Bồ Tát xin lời tiên tri.
Khi đó Đại Tự Tại Thiên Vương (thần Siva) đến trước Quán Tự Tại Bồ Tát, đảnh lễ bạch rằng:
– Con xin tỏ lòng tôn kính với Quán Tự Tại Bồ Tát, vị Bồ tát linh thiêng, tay cầm một bông sen, gương mặt Ngài cũng tinh khiết và rạng ngời như hoa sen, Ngài thích hoa sen, Ngài hóa hiện khắp mọi nơi để cứu độ chúng sinh, Ngài đã hoàn toàn mang ánh sáng, và niềm an ủi cho tất thảy chúng sinh đến khắp cõi nhân gian.
Đại Tự Tại Thiên Vương (thần Siva) đã tán thán Quán Tự Tại Bồ Tát như vậy và sau đó ngồi tĩnh tọa.
Khi đó Quán Tự Tại Bồ Tát hỏi Đại Tự Tại Thiên Vương:
– Này Thiện nam tử! Sao con lại im lặng?
Đại Tự Tại Thiên Vương đáp:
– Con khẩn cầu Ngài một lời tiên tri về sự giác ngộ tối thượng của con.
Quán Tự Tại Bồ Tát nói rằng:
– Này Thiện nam tử, trong thế giới có tên là Vivrta, con sẽ thành bậc Như Lai, A – La – hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn với danh hiệu Bhasmesvara.
Khi đó nàng Umadevi – hoàng hậu của Đại Tự Tại Thiên Vương (thần Siva) đã đến và đảnh lễ dưới chân và kính tụng Ngài:
– Con xin tỏ lòng tôn kính với Quán Tự Tại Bồ Tát, vị Bồ Tát linh thiêng, bậc ban tặng sinh sống cho đời, vị soi sáng nhân gian, tay cầm bông sen, vân du khắp mọi nơi, dẫn dắt chúng sinh đến Niết bàn, Ngài có trí tuệ siêu việt, và thông đạt Phật pháp.
Nàng Umadevi đã kính tán Quán Tự Tại Bồ Tát như vậy và sau đó bạch rằng:
– Con khẩn cầu Ngài giải thoát cho con khỏi thân phụ nữ thấp kém này. Con khẩn cầu Ngài giải thoát cho con khỏi phải chịu đựng những điều u mê trong lòng, và không bị chi phối bởi phiền não.
Khi đó Quán Tự Tại Bồ Tát đã nói với nàng rằng:
– Này Thiện nữ nhân! Cõi tự của con sẽ thuộc dãy phía Nam trên núi Tuyết sơn, núi lớn nhất trong các núi. Con sẽ thành bậc Như Lai, A – La – hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn với danh hiệu Umesvara.
Đó chính là lời tiên tri mà nàng Umadevi đã nhận được.
Đức Phật dạy rằng:
– Này Trừ Cái Chướng! Hãy xem Quán Tự Tại Bồ Tát đã tiên tri về sự giác ngộ tối thượng của họ, Thiện nam tử! (Phần này mang tên phần nói về thần Siva.)
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Thế Tôn rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Quán Tự Tại Bồ Tát đã đến rồi. Con nay như người mù được sáng mắt, đã thấy chân lý. Nguyện của con đã thành tựu viên mãn. Con đã được khai mở con đường đưa đến sự thanh tịnh. Đức Thế Tôn đã dạy con về việc làm chủ Tâm Ý, về Pháp Thân, và về Niết Bàn.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Thế Tôn rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay con khẩn cầu Ngài giảng về những thần lực hy hữu của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đức Thế Tôn thuyết:
– Này Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Thần lực đó là như vầy:
– Có các vua của các núi là núi Chước ca la và núi Đại thiết vi.
– Có các vua của các núi là núi Mục chơn lân đà và núi Đại Mục chơn lân đà.
– Có các vua của các núi là núi Hắc Sơn và núi Đại Hắc Thiên
– Có các vua của các núi là núi Samsrsta và núi Mahasamsrsta
– Vua của các núi là núi Đại Phúc Khẩn Na La
– Vua của các núi là núi Anadarsaka
– Vua của các núi là núi Krtsragata
– Vua của các núi là núi Jalinimukha
– Vua của các núi là núi Satasrnga
– Vua của các núi là núi Thiền Định
– Vua của các núi là núi Mahamaniratna
– Vua của các núi là núi Thiện kiến
– Và vua của các núi là núi Akaladarsana.
Này Thiện nam tử! Ta có thể tính đếm số lượng, có bao nhiêu phân trọng lượng có trong các núi ấy, có bao nhiêu trăm gờram, hoặc bao nhiêu ngàn gờram, hoặc bao nhiêu triệu tỷ gờram. Nhưng Ta không thể tính đếm hết công đức đã tích tập được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Thần lực đó là như vầy: Ta có thể đếm từng giọt nước trong đại dương mênh mông, nhưng Ta không thể đếm được công đức đã tích tập được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Thần lực đó là như vầy: Ta có thể đếm từng chiếc lá trong một khu rừng cây trầm hương, nhưng Ta không thể đếm được công đức đã tích tập được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Trừ Cái Chướng Bồ Tát! Thần lực đó là như vầy: Nếu như núi Núi Tuyết Sơn được ví là giấy, và đại dương bao la được ví là mực, và nếu tất cả đàn ông, đàn bà, con trai và con gái sống trên bốn lục địa trở thành người biên chép, và nếu họ phải biên chép không ngừng trong phạm vi không giới hạn và giấy không bao giờ hết thì Ta cũng có thể đếm được từng chữ một. Nhưng Thiện nam tử! Ta không thể tính đếm được công đức đã tích tập được của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Thần lực đó là như vầy: Nếu có người phải mãi mãi cúng dường y phục, thực phẩm, phòng ốc, thuốc men cùng những vật dụng cần thiết cho các đức Như Lai, A – La – Hán và Chánh Biến Tri nhiều không thể đếm như số cát sông Hằng, thì công đức đã tích tập từ việc cúng dường các đức Như Lai này nếu đem so sánh với công đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, thì chỉ bằng công đức một sợi tóc trên đầu Ngài mà thôi.
Này Trừ Cái Chướng Bồ Tát! Thần lực đó là như vầy: Quán Tự Tại Bồ Tát có trăm ngàn các loại Tam muội – Đại định:
– Định lấy tên là Buông Xả Cứu Cánh
– Định lấy tên là Trang Nghiêm
– Định lấy tên là Phi Trang Nghiêm
– Định lấy tên là Tia Sáng Chớp
– Định lấy tên là Nhẫn Nhục
– Định lấy tên là Đại Trí Tuệ
– Định lấy tên là Hiện Thân
– Định lấy tên là Kim Cang Đại Phương
– Định lấy tên là Bố Thí Ba La Mật
– Định lấy tên là Bách Lực
– Định lấy tên là Tia Sáng Vô tận
– Định lấy tên là Thượng Đỉnh Tâm Trí
– Định lấy tên là Lực Vương
– Định lấy tên là Kim Cang Thành
– Định lấy tên là Kim Cang Lộ
– Định lấy tên là Bố Thí Ba La Mật Bất Đoạn
– Định lấy tên là Giải Thoát Căn
– Định lấy tên là Giải Thoát Sân
– Định lấy tên là Quang Minh Căn
– Định lấy tên là Nhật Quang
– Định lấy tên là Pháp Đạt
– Định lấy tên là Kim Cang Thai
– Định lấy tên là Đa Văn
– Định lấy tên là Tạo Niết Bàn
– Định lấy tên là Tạo Tia sáng Vô lượng
– Định lấy tên là Tạo Thiền Du Già
– Định lấy tên là Duyên Khởi
– Định lấy tên là Thế Giới Quang
– Định lấy tên là Phật Quang
– Định lấy tên là Từ Bi
– Định lấy tên là Trí tuệ
– Định lấy tên là Điều Phục
– Định lấy tên là Chúng Sinh
– Định lấy tên là Tạo Vô tận
– Định lấy tên là Giải Trừ Địa Ngục Vô gián
– Định lấy tên là Huyền Hải
– Định lấy tên là Trăm Đoàn Tùy Tùng và
– Định lấy tên là Giảng Đạo
Này Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ Tát có các Đại định như vậy.
– Này Trừ Cái Chướng Bồ Tát! Thần lực đó là như vầy: khi Đức Như Lai, A – La – hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn với hiệu Câu Lưu Tôn Phật, xuất hiện trên thế gian, vào lúc đó Ta là vị Bồ tát có tên gọi là: ‘‘Danasura”.
Khi Ta ở cạnh Đức Như Lai đó, Ta đã nghe nói đến sự mô tả về những thần lực của Quán Tự Tại Bồ Tát, và Ta đã thấy những Đại định khác nhau của Bồ Tát Phổ Hiền và những Bồ Tát khác.
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Kim Cang Thăng thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Duyên Khởi
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Nguyệt Quang thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Nhật Quang
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Phóng Quang thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Hư không Bảo
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Viên Mãn thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Trí Tuệ của các Cõi trời
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Thiên thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Trí Tuệ của các Cõi trời
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Thiên thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Huyền Hải
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Sư Tử Hống thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Sư Tử
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền ở Định Bố Thí Ba La Mật thì Quán Tự Tại Bồ Tát ở Định Hỏa ngục Vô gián
– Khi Bồ Tát Phổ Hiền mở thêm các lỗ chân lông của mình, thì Quán Tự Tại Bồ Tát đã mở tất cả các lỗ chân lông của mình
Vào lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền nói với Quán Tự Tại Bồ Tát rằng:
– Lành thay, lành thay Đại Sĩ! Đại Sĩ có được thần lực như vầy!
Khi đó Câu Lưu Tôn Như Lai nói với Bồ Tát Phổ Hiền rằng:
– Này Thiện nam tử! Con mới chỉ thấy một phần nhỏ thần lực của Quán Tự Tại Bồ Tát mà thôi. Thậm chí cả các chư vị Như Lai cũng không có được thần lực của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đó là những gì Ta đã nghe Câu lưu Tôn Phật nói.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch với Đức Thế Tôn:
– Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Thế Tôn giảng Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương để tất thảy chúng con được lợi lạc và ứng nghiệm Phật pháp.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Thiện nam tử! Những người thọ trì theo Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương sẽ không bị nghiệp chướng quá khứ làm mê mờ.
Những kẻ phạm tội gian dâm với người khác, những kẻ phạm tội ngũ nghịch như giết cha mẹ, giết A – la – hán, hủy Chùa phá tượng Phật, cố tình khiến thân Như Lai chảy máu, và những kẻ đồng lõa với các hành động xấu xa đó, sẽ được giải thoát khỏi nghiệp chướng xấu nhờ thọ trì Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này.
Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Làm cách nào con có thể biết được Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương đã mang đến sự giải thoát khỏi tất cả các nghiệp chướng xấu?
Đức Thế Tôn dạy:
– Này Thiện nam tử! Ở mặt phía Nam của núi Sumeru, bảy vị Phật quán xét các Ác nghiệp và Thiện nghiệp. Hiện Ta cũng đang quán xét như vậy. Các Ngài quán thấy:
Một mảnh vải trắng biến thành màu đen, và một mảnh vải đen biến thành màu trắng. Khi vải trắng biến thành màu đen là biểu tượng cho việc tích tụ các nghiệp chướng xấu. Khi vải đen biến thành màu trắng là biểu tượng cho việc tích tụ của Phật pháp.
Này Thiện nam tử! Bằng cách đó, Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương đốt hết tất cả các nghiệp chướng xấu. Do đó, tấm vải trở thành màu trắng. Nó xóa bỏ tất cả các cảm thọ bị vô minh chi phối. Này Thiện nam tử, giống như thế, Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này đốt hết tất cả các nghiệp chướng xấu. Những người thọ trì Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương sẽ có được hạnh phúc.
Này Thiện nam tử! Đừng nghĩ họ là những chúng sinh thông thường. Họ là những vị Bồ Tát Bất Thối chuyển đó. Khi họ chết, mười hai vị Phật sẽ đến và trấn an họ:
– Đừng sợ, Thiện nam tử! Các ông đã được nghe Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, vì thế các ông sẽ không còn trôi lăn trong luân hồi sinh tử nữa. Các ông sẽ không bao giờ phải thọ nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử nữa. Các ông sẽ không bị tách ly những gì các ông ưa thích, và sẽ không phải đối mặt với những gì các ông không ưa thích. Thiện nam tử! Các ông sẽ tái sinh về thế giới Cực lạc, sẽ được nghe Đức Phật A Di Đà Thuyết Pháp.
Thiện nam tử! Bằng cách đó, những chúng sinh này sẽ có hạnh phúc.
Khi Đức Phật thuyết pháp đó xong, Quán Tự Tại Bồ Tát đảnh lễ dưới chân Phật rồi rời đi.
Trừ Cái Chướng Bồ Tát ngồi tĩnh tọa.
Các hàng Trời, Rồng, Dạ – xoa, A – tu – la, Ca lâu – la, Ma – hầu – la – già, Người và Phi nhân đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi lui.
Khi đã thuyết giảng cho Ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo Ngài A – Nan:
– Như có người nào không biết nghiệp báo mà ở trong Tịnh xá khạc nhổ cùng đại tiểu tiện và những việc tương tự, nay Ta sẽ vì ông mà nói quả báo đó:
Nếu ai khạc nhổ trên đất của Thường Trụ, thì người này sẽ sanh làm côn trùng, miệng nhỏ như cây kim, và ở trong cây Sa – la mười hai năm.
Nếu ai đại tiểu tiện trên đất của Thường Trụ, thì người này sẽ sanh làm con giòi bọ bẩn thỉu ở trong phân hoặc nước tiểu của đại thành Ba – la – nại.
Nếu ai dùng tăm xỉa răng của Thường Trụ mà không xin phép, thì người này sẽ sanh làm cá, rùa, hoặc loài cá Ma – kiệt.
Nếu ai trộm cắp đèn dầu, gạo, đậu, hoặc những vật khác của Thường Trụ, thì người này sẽ đọa trong loài quỷ đói với đầu tóc bù xù và lông trên thân đều dựng đứng. Bụng của chúng lớn như núi, còn cổ thì nhỏ như cây kim. Thân hình chúng cháy khét và chỉ còn lại hài cốt. Đó là khổ báo mà người này phải thọ lấy.
Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiều khắp trên thân thể. Đó là khổ báo mà trăm ngàn vạn năm người này phải thọ lấy.
Nếu ai chiếm đoạt đất đai của Thường Trụ, thì người này sẽ đọa xuống địa ngục gào thét. Họ bị bắt nuốt viên sắt vào miệng và khiến cho môi, răng, hàm răng cùng cổ họng thảy đều cháy chín. Tim, gan, ruột, bụng và toàn thân cũng bị cháy sạch. Tiếp đó, có ngọn gió nghiệp thổi qua và làm cho họ chết đi sống lại, rồi các ngục tốt của Diêm Vương xua đẩy người tội đi. Do nghiệp tự chiêu cảm nên tội nhân sẽ sanh ra với cái lưỡi to lớn và có trăm ngàn vạn lưỡi cày sắt cày bừa trên đó. Khi đã thọ khổ báo nhiều ngàn vạn năm như thế, họ được thoát ra địa ngục kia, rồi lại rơi vào địa ngục kế. Trong địa ngục ấy có những cái chảo khổng lồ đang bốc cháy. Ở đó, các ngục tốt của Diêm Vương lôi kéo người tội và dùng trăm ngàn vạn cây châm để chích trên lưỡi của họ. Do bởi nghiệp lực nên sẽ không bị chết. Tiếp đến, các ngục tốt lùa đuổi tội nhân đến hầm lửa và ném vào trong đó. Tiếp theo, chúng xua đẩy người tội đến bờ sông Nại và ném vào trong ấy. Mặc dù vậy nhưng họ cũng chẳng bị chết. Và cứ triển chuyển như thế suốt ba kiếp, người tội sẽ lần lượt đọa vào các địa ngục khác nhau. Sau đó, người này sẽ thác sanh vào trong một gia đình bần cùng hạ tiện ở châu Nam Diêm – phù – đề và mắt lại bị mù. Đó là khổ báo mà người này phải thọ lấy. Hãy cẩn thận chớ trộm cắp đồ dùng của Thường Trụ.
Đối với chư Tỳ – kheo nào trì giới thì nên thọ trì ba y. Nếu vào cung vua thì nên mặc y lớn thứ nhất. Nếu ở trong đại chúng thì nên mặc y thứ hai. Nếu đang lúc làm việc, hoặc vào thôn xóm, hoặc vào thành thị, hay trong lúc đang đi, thì nên mặc y thứ ba. Chư Tỳ – kheo nên thọ trì ba y như vậy. Nếu Tỳ – kheo nào tu theo giới luật thì sẽ được công đức và có trí tuệ.
Ta giảng nói các Tỳ – kheo phải trì giới và không được trộm cắp tài vật của Thường Trụ. Ví dụ như có người bị rơi xuống hầm lửa hoặc thường phải uống thuốc độc, thì họ vẫn còn cách cứu chữa. Tuy nhiên, nếu ai ăn cắp đồ vật của Thường Trụ thì chẳng thể nào cứu vớt.
Lúc bấy giờ Tuệ Mạng A – nan bạch Đức Phật rằng:
– Chúng con xin vâng lời Đức Phật dạy, sẽ tu học và thực hành trọn đủ. Nếu vị Tỳ – kheo nào thọ trì Ba – la – đề – mộc – xoa, là môn biệt giải thoát, thì sẽ khéo an trụ và thủ hộ giáo Pháp của Phật.
Lúc ấy, Tuệ Mạng A – nan đảnh lễ dưới chân Đức Phật, đi nhiễu quanh và cáo lui. Tiếp đó, chư đại Thanh Văn, ai nấy trở về bổn xứ của mình. Tất cả Trời, Rồng, Dạ – xoa, Càn – thát – bà, A – tu – la, Khẩn – na – la, Ma – hầu – la – già, Người và Phi nhân trong thế gian, sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng, họ đều hoan hỷ tín thọ, đảnh lễ Đức Phật rồi cáo lui.
Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
HẾT