I.- MỞ ĐỀ
Sống trong cuộc đời muôn mặt, người muốn chọn lấy một lối đi, vạch ra một
cuộc sống đầy đủ ý nghĩa và an lành, thật không phải là việc dễ. Chúng ta là khách lữ
hành đang đứng trước ngã tư ngã năm, mà chưa biết cuối cùng các con đường ấy sẽ
đưa đến đâu? Chọn lấy một con đường để đi đến suốt đời, phải khôn ngoan sáng suốt
lắm mới khỏi hối hận về mai sau. Nhưng mà bắt buộc chúng ta phải chọn lấy, đừng
nhờ nhõi, đừng nghe lời xúi giục, vì đây là con đường tự ta đi không ai thế ta được.
Chọn kỹ rồi sẽ đi, là thái độ của kẻ khôn ngoan; nhắm mắt đi càn phó mặc đến đâu hay
đến đó, là kẻ khờ dại, mang cả cuộc đời làm một trò chơi. Người trí phải nhìn kỹ, phải
xem xét tường tận trước khi mình cất bước đi trên một con đường nào. Qui y Tam Bảo
quả là đã đặt mình trên một con đường đi đến tận cùng. Đến tận đầu đường là suốt
cuộc đời của chúng ta. Việc làm này cần phải hiểu biết rõ, nhận thức tường tận, mới
phát tâm Qui y. Phát nguyện Qui y là chúng ta đã đặt định hướng cho cả cuộc đời. Nếu
không hiểu biết gì thì việc Qui y mất hết ý nghĩa của nó.
II.- ĐỊNH NGHĨA
Tam qui nói đủ là Qui y Tam Bảo. Tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
Phật là chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni, do trước kia Ngài tu hành giác ngộ thành Phật.
Pháp bảo là giáo pháp do đức Phật nói ra chỉ dạy đường lối tu hành. Tăng bảo là những
vị tu hành theo giới luật và chánh pháp của đức Phật.
Tại sao gọi là Phật bảo?
– Từ một kẻ phàm phu như chúng ta tu hành thành Phật thật là chuyện ít có
trên nhân gian này. Thế nên trong kinh thường nói Phật ra đời khó gặp, như hoa Ưu-
đàm một ngàn năm mới trổ một lần. Bởi ít có khó gặp nên nói là báu. Hơn nữa, giác
ngộ thành Phật tự bản thân Ngài đã thoát khỏi sanh tử luân hồi, đem chỗ giác ngộ ấy
dạy lại cho người cùng ra khỏi sanh tử, là điều cao cả nhất trần gian nên gọi là báu. Thế nào gọi là Pháp bảo?
– Chánh pháp xuất thế hi hữu do đức Phật dạy lại, người nghe rất khó hiểu khó
thấu đáo được. Nhưng một khi đã hiểu, ứng dụng tu hành có thể chuyển đời phàm
phu trở thành thánh nhân, pháp như vậy còn gì quí báu bằng. Pháp của Phật dạy là
chân lý, dù trải thời gian bao lâu chân lý ấy vẫn rạng ngời như hòn ngọc báu. Những
kẻ đang lạc lối trong đêm đen, bất thần gặp được ngọn đuốc, vui mừng quí tiếc thế
nào, người học đạo gặp được chánh pháp cũng như thế. Người đang bị chìm đắm
ngoài bể cả, trông thấy một con thuyền đến vớt, vui mừng sung sướng quí mến thế
nào, người học đạo gặp được chánh pháp cũng như thế. Cho nên nói “trăm ngàn
muôn kiếp khó tìm gặp”.
Thế nào gọi là Tăng bảo?
– Tăng là chỉ cho một nhóm tu sĩ học theo Phật, sống chung nhau đúng tinh thần
Lục hòa. Sống đúng tinh thần Lục hòa là việc ít có trên nhân gian này. Bởi vì người
thế gian sống đua đòi giành giật hơn thua với nhau, không bao giờ họ sống hòa thuận
như thế được. Lục hòa là: thân hòa chung ơ,û miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng
vui, giới luật hòa cùng giữ, hiểu biết hòa cùng giải, lợi hòa chia đồng. Sáu điều này là
tinh thần của Tăng. Nếu có người đầu tròn áo vuông mà không sống theo tinh thần Lục
hòa cũng không gọi là Tăng. Ở trong tập thể từ bốn người trở lên, hằng hòa thuận
chung sống đúng tinh thần Lục hòa, việc này rất khó làm đối với người thế gian. Vì
thế, tu sĩ sống khuôn theo tinh thần Lục hòa, thật là một điều quí báu ở trên nhân gian.
Vả lại, trên sự tu hành, các vị ấy tự mình đã vơi cạn phiền não, còn dạy bảo kẻ khác
dẹp bỏ phiền não. Chính những vị ấy đã được phần nào an ổn thanh tịnh, lại hướng dẫn
người đến chỗ an ổn thanh tịnh. Bởi lẽ ấy, gọi các ngài là Tăng bảo.
Thế nào là Qui y?
– Qui là trở về, y là nương tựa. Trở về nương tựa với Phật, Pháp và Tăng gọi là Qui
y Tam Bảo. Từ lâu, chúng ta mãi chạy theo dục lạc tạo nghiệp đau khổ, nay hồi tâm thức
tỉnh quyết định trở về nương tựa với Tam Bảo. Tam Bảo là chỗ cứu kính để cho đời chúng
ta nương tựa, không còn tạo nghiệp đau khổ, mà thường đem sự an lạc lại cho chúng ta.
Đây là sự hồi tâm tỉnh giác phát nguyện trở về của chúng ta. Sự tỉnh giác này là nền tảng của lâu đài trí tuệ, nó là bước đầu trên con đường về quê hương giác ngộ. Đặt nền tảng
này vững chắc thì lâu đài trí tuệ mới được lâu dài. Đó là sự hệ trọng của tinh thần Qui y.
III.- QUI Y TAM BẢO BÊN NGOÀI
Phật Pháp Tăng là đối tượng để chúng ta Qui y. Nguyện noi theo con đường
đức Phật đã đi là Qui y Phật. Quyết thực hành những lời chỉ dạy của Ngài còn ghi
trong kinh điển là Qui y Pháp. Thuận theo sự hướng dẫn tu hành của chúng Tăng là
Qui y Tăng. Từ đây bước đi, cuộc sống của chúng ta lấy Tam Bảo làm mẫu mực,
nhắm thẳng theo đó mà tiến tới, khỏi phải nghi ngờ dò dẫm như thuở nào. Chúng ta
là hoa tiêu, Tam Bảo là ngọn hải đăng. Cứ nhắm theo hải đăng mà lái con thuyền
thân mạng của chúng ta cho đến đích. Song Phật pháp, người Phật tử quyết định tin
theo không còn chút do dự, còn Tăng thì phải cẩn thận để khỏi nhận lầm. Tăng là tập
đoàn Tăng lữ sống đúng tinh thần Lục hòa, không phải tính cách cá nhân. Nếu một vị
sư đứng ra làm lễ Qui y cho Phật tử, chính vị ấy đại diện cho tập đoàn. Qui y Tăng là
qui y với những vị sư sống đúng tinh thần Lục hòa, không phải cuộc hạn riêng vị sư
truyền tam qui ngũ giới cho mình. Nếu vị đại diện truyền qui giới ấy có tu được hay
không tu được, người thọ pháp qui giới vẫn đã Qui y Tăng rồi. Khi qui y một vị Tăng
tức là đã qui y tất cả chư Tăng, nếu vị nào sống đúng tinh thần hòa hợp. Phật tử có
quyền học hỏi tất cả Tăng chúng, không nên hạn hẹp nơi ông thầy của mình. Được
vậy mới đúng tinh thần Qui y Tam Bảo bên ngoài.
IV.- QUI Y TAM BẢO TỰ TÂM
Phật pháp bao giờ cũng phải đủ hai mặt, Tam Bảo bên ngoài là đối tượng, Tam
Bảo tự tâm là bản chất. Nương Tam Bảo bên ngoài, chúng ta phát triển Tam Bảo của
tự tâm. Trong ngoài hỗ tương để viên mãn công phu tu hành, là mục tiêu chánh yếu
của đạo Phật.
Thế nào là Tam Bảo tự tâm?
Tánh giác sẵn có nơi chúng ta là Phật bảo. Lòng từ bi thương xót cứu giúp chúng
sanh là Pháp bảo. Tâm hòa hợp thảo thuận với mọi người là Tăng bảo. Nhờ Phật bảo
bên ngoài, chúng ta đánh thức tánh giác của mình, trở về nương tựa tánh giác của mình
là Qui y Phật. Nhờ Pháp bảo bên ngoài, chúng ta dấy khởi lòng từ bi đối với chúng sanh,
trở về nương tựa với lòng từ bi của mình là Qui y Pháp. Do chư Tăng bên ngoài gợi lại cho chúng ta có tinh thần hòa hợp thuận thảo, trở về nương tựa với tinh thần hòa hợp
thuận thảo của mình là Qui y Tăng. Phật Pháp Tăng bên ngoài là trợ duyên giúp chúng
ta phát khởi Phật Pháp Tăng của tự tâm. Ví như ông thầy giáo làm trợ duyên cho đứa
học trò mởø mang kiến thức của nó. Có ông thầy giáo cần cù, mà đứa học trò lười biếng
không chịu học, ông thầy cũng trở thành vô ích. Cũng thế, có Tam Bảo bên ngoài, người
Phật tử không cố gắng đánh thức Tam Bảo của chính mình, Tam Bảo bên ngoài cũng
thành vô nghĩa. Tam Bảo bên ngoài là điều kiện tối thiết yếu với người Phật tử, nhưng
có được giác ngộ giải thoát chính là khả năng của Tam Bảo tự tâm. Chỉ biết có Tam
Bảo bên ngoài là chấp sự bỏ lý. Một bề tin vào Tam Bảo của tự tâm không cần biết đến
Tam Bảo bên ngoài, là chấp lý bỏ sự. Người Phật tử chân chánh phải viên dung sự lý
mới khỏi trở ngại trên đường tu.
V.- NGHI THỨC QUI Y
Trọng tâm chủ yếu trong buổi lễ Qui y, chính lúc Phật tử quì trước Tam Bảo, ba
lần phát nguyện: “Đệ tử… xin suốt đời qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.” Câu phát
nguyện này tự đáy lòng Phật tử phát xuất, không do sự ép buộc xúi giục nào. Ba lần
phát nguyện như vậy là gieo hạt giống vào sâu trong tàng thức, khiến đời đời không
quên. Đây là tinh thần tự giác tự nguyện. Hình thức nghi lễ chỉ giúp thêm ấn tượng
quan trọng cho giờ phút phát nguyện ấy thôi. Khi chúng ta tỉnh giác nguyện theo Tam
Bảo thì đời ta được lợi ích. Nếu trên đường tu có lúc nào bị vô minh che đậy không
nhớ Tam Bảo, chúng ta tự chịu thiệt thòi. Nhà Phật không bắt buộc chúng ta thệ những
gì nặng nề để không bỏ đạo. Của báu cho người nếu ưng nhận lời thì được lợi ích,
không ưng nhận thì thôi, bắt buộc làm gì. Trừ ra có hậu ý gì, mới bắt buộc những câu
thề nặng để không dám bỏ. Người hiểu được chỗ này mới thấy giá trị chân thật của
đạo Phật. Tất cả sự dụ dỗ ép buộc để theo đạo, nhà Phật hoàn toàn phản đối. Mỗi
người tự nhận thức rõ ràng về đạo Phật rồi phát tâm đến với đạo, mới đúng tinh thần
Phật tử. Hiểu rồi mới theo là hành động đúng với tinh thần giác ngộ. Dùng thuật hay,
phép lạ để dẫn người vào đạo, đó là mê tín. Dùng mọi quyền lợi để dụ người ta vào
đạo, đó là cám dỗ kẻ ngu si, không phù hợp với tinh thần giác ngộ. Chúng ta có bổn
phận giải thích để người khác hiểu phát tâm qui y là, người truyền đạo chân chánh.
Nghi thức trịnh trọng trong buổi lễ qui y, chỉ là trợ duyên cho lời phát nguyện của chúng ta được thành tựu viên mãn. Nghi lễ này không có nghĩa là Phật sẽ ban ơn cho
chúng ta trọn đời được an lành.
VI.- KHẲNG ĐỊNH LẬP TRƯỜNG
Sau khi qui y Tam Bảo, chúng ta khẳng định lập trường một cách tỏ rõ: “Qui y
Phật không qui y thiên, thần, quỉ, vật.” Chúng ta đã nhận định kỹ càng quyết chí theo
Phật là đấng giác ngộ, không lý do gì lại theo thiên, thần, quỉ, vật. Bởi vì thiên, thần,
quỉ, vật vẫn chưa giác ngộ, còn bị luân hồi như chúng ta. Song cũng có một số Phật tử
đã qui y Phật, mà vẫn chạy theo quỉ thần. Những người này vì tham lợi lộc, vì thích
mầu nhiệm, nên đã đi sai đường Phật pháp. Thậm chí vì sự mê tín của họ, họ trở lại
kính trọng quỉ thần hơn Phật. Đây là hiện tượng xấu xa để khách bàng quang phê bình
Phật giáo.
“Qui y Pháp không qui y ngoại đạo tà giáo.” Chánh pháp của Phật là chân lý,
cứu giúp chúng sanh một cách thiết thực, như ông thầy thuốc đối với bệnh nhân. Hiểu
được lẽ chân thực này, còn lý do gì chúng ta chạy theo ngoại đạo tà giáo. Chúng ta tự
nhận mình yêu chuộng chân lý, cầu mong sự thoát khổ thiết thực, ngoại đạo tà giáo
còn gì hấp dẫn được chúng ta. Chỉ có những kẻ ba phải nghe đâu chúc đó, mới có
những hành động đổi thay vô lý như vậy. Dù có những phép tà ngoại linh thiêng muốn
gì được nấy, chúng ta cũng không khởi lòng tham theo họ. Hoặc họ có những phương
thuốc linh mầu nhiệm bệnh gì cũng cứu khỏi, là Phật tử chân chánh thà chịu chết chớ
không cầu xin. Thân này có giữ gìn khéo mấy, cuối cùng cũng tan hoại, lạc vào đường
tà kiếp kiếp khó ra khỏi.
“Qui y Tăng không qui y bạn dữ nhóm ác.” Chúng ta đã chọn lựa những vị hiền
đức nương theo, khiến đời mình về gần với đức hạnh. Bạn dữ nhóm ác đối với người
biết đạo cần phải tránh xa. Bởi vì “gần mực thì đen gần đèn thì sáng”, hay “gần đồ
tanh hôi mình bị hôi lây, gần vật thơm tho mình được thơm lây”. Vì thế, chúng ta phải
can đảm đi đúng đường của mình đã chọn, dù có bị khinh khi mạ lỵ, ta cũng cứ thế mà
đi. Bởi vì chúng ta đâu phải là kẻ mù quáng, mà đành bỏ cái tốt gần cái xấu. Khẳng
định lập trường rõ ràng là người có ý chí cương quyết. Nếu người tu hành mà thiếu ý
chí này, dễ bị gió lung lay. VII.- KẾT LUẬN
Qui y Tam Bảo là nền móng tòa nhà giác ngộ, là nấc đầu trên cây thang giải
thoát, là những bước đầu trên con đường về quê hương vô sanh. Muốn tòa nhà vững
chắc, cần phải có nền móng kiên cố. Cần vượt tột cây thang giải thoát, nấc đầu phải
bước cho vững. Thích sự an lành ở quê hương vô sanh, những bước đầu trên con
đường trở về phải đi cho đúng. Thiếu nền móng Tam Qui thì tòa nhà giác ngộ không
sao xây cất được. Không có nấc đầu, khó ai có thể leo tận cây thang giải thoát. Những
bước đầu trên con đường về quê đã sai, trăm ngàn bước sau cho đến càng đi càng sai.
Vì thế, Qui y Tam Bảo có tầm quan trọng vô cùng. Mỗi người muốn đến với đạo Phật
phải từ cửa Qui y mà vào, không như thế thì học Phật mất căn bản. Bởi nó đóng một
vai trò quan trọng như vậy, nên người Phật tử phải thận trọng trong việc phát nguyện
Qui y. Đừng vì là Qui y cho có phước, cho khỏi bệnh hoạn, cho Phật gia hộ qua tai
ách…, đều là lý do mê tín trái với tinh thần tự giác tự nguyện của Đạo Phật.